QUỐC HỘI
Số: Không số
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 1980
|
||||||
HIẾN PHÁP
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM
1980
________________
LỜI NÓI ĐẦU
Trải qua bốn nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần
cù, chiến đấu dũng cảm để dựng nước và giữ nước. Cuộc đấu tranh lâu dài, bền
bỉ vì độc lập, tự do đã hun đúc nên truyền thống kiên cường, bất khuất của
dân tộc ta.
Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đi con đường của Cách mạng tháng
Mười Nga, nhân dân ta đã lần lượt chiến thắng bọn đế quốc Nhật, Pháp, Mỹ và
bè lũ tay sai của chúng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến
lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nước ta từ
một nước thuộc địa và nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, thống nhất
và xã hội chủ nghĩa, một thành viên của Cộng đồng xã hội chủ nghĩa thế giới.
Năm 1945, sau khi quân đội Liên Xô đánh thắng chủ nghĩa phát
xít, nhân dân ta đã làm Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2 tháng 9 năm
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập. Nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á, ra đời.
Nhưng thực dân Pháp, được đế quốc Mỹ giúp sức, đã xâm lược
nước ta một lần nữa. "Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ", nhân dân ta kháng chiến lâu dài
chống quân xâm lược, thực hiện cải cách ruộng đất. Chiến thắng vĩ đại Điện Biên
Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Năm 1954, Hiệp
định Giơ-ne-vơ được ký kết trên cơ sở công nhận độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng tháng
Tám và của cuộc kháng chiến chống Pháp mở đầu thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa
thực dân cũ trên thế giới.
Thay chân thực dân Pháp, đế quốc Mỹ biến miền Nam Việt Nam
thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, âm mưu chia cắt lâu dài
nước ta, đặt miền Nam Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia vào phòng tuyến phản cách
mạng của Mỹ. Để thực hiện kế hoạch đó, đế quốc Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến
tranh xâm lược cực kỳ man rợ đối với nước ta. Thấm nhuần chân lý "không
có gì quý hơn độc lập, tự do", nhân dân ta chiến đấu anh dũng, quyết
giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Chiến thắng dồn
dập của nhân dân Việt Nam, cùng với chiến thắng của nhân dân Lào và nhân dân
Cam-pu-chia, đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri năm 1973 về Việt Nam.
Mùa xuân năm 1975, nhân dân Việt Nam giành được thắng lợi trọn
vẹn trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử. Sau ba mươi năm chiến đấu gian khổ, miền Nam, thành đồng Tổ
quốc, được hoàn toàn giải phóng.
Trong khi toàn dân ta kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã đạt được những thành tựu to lớn: thiết
lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người,
bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tiến hành
cách mạng tư tưởng và văn hoá, vừa xây dựng vừa chiến đấu, làm tròn nghĩa vụ
hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ đối với miền Nam anh hùng.
Thắng lợi của nhân dân ba nước Đông Dương nói chung và thắng
lợi của nhân dân Việt Nam nói riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ báo hiệu
sự phá sản hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân mới, góp phần củng cố và mở rộng
hệ thống thế giới của chủ nghĩa xã hội, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc,
phong trào công nhân và dân chủ, đẩy mạnh thế tiến công của ba dòng thác cách
mạng của thời đại.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta tiến hành
tổng tuyển cử tự do trong cả nước, thực hiện thống nhất Tổ quốc. Tháng 7 năm
1976, nước ta lấy tên là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vừa trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng, đồng bào ta
thiết tha mong muốn có hoà bình để xây dựng Tổ quốc, nhưng lại phải đương đầu
với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ở
Cam-pu-chia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đã
giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
chống bọn phản động Cam-pu-chia ở biên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền
Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Cách mạng Việt Nam liên tiếp giành được thắng lợi to lớn là do
Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, vạch
ra đường lối đúng đắn để lãnh đạo cách mạng nước ta; giương cao hai ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; củng cố liên minh công nông do giai cấp
công nhân lãnh đạo; đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận
dân tộc thống nhất; xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân; không
ngừng củng cố chính quyền cách mạng; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
quốc tế vô sản, phối hợp sức mạnh của nhân dân ta với phong trào cách mạng
của nhân dân thế giới; kết hợp đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và đấu
tranh ngoại giao.
Đó là thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn, chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, tinh thần hy sinh không bờ bến của đồng bào và chiến sĩ cả nước
một lòng một dạ vì sự nghiệp giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đó là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác
giúp nhau giữa nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia; thắng lợi của
tình đoàn kết chiến đấu, sự viện trợ to lớn và có hiệu quả của Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa anh em khác đối với cách mạng Việt Nam; thắng lợi của
các lực lượng độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình trên thế giới đã tích cực
ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Đồng bào ta trải qua biết bao hy sinh, gian khổ mới có ngày
nay! Tiền đồ hết sức vẻ vang, nhưng nhiệm vụ rất nặng nề. Toàn dân ta quyết
tăng cường đoàn kết, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
vĩ đại, hăng hái tiến lên theo đường lối mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra:
"Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng
về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn
hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo
nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc
phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ
quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội".
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần có một bản Hiến
pháp thể chế hoá đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó
là Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước.
Kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm
1959, Hiến pháp này tổng kết và xác định những thành quả đấu tranh cách mạng
của nhân dân Việt Nam trong nửa thế kỷ qua, thể hiện ý chí và nguyện vọng của
nhân dân Việt Nam, bảo đảm bước phát triển rực rỡ của xã hội Việt Nam trong
thời gian tới.
Là luật cơ bản của Nhà nước, Hiến pháp này quy định chế độ
chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Nó thể hiện
mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà nước quản lý trong xã
hội Việt Nam.
Toàn thể nhân dân Việt Nam đoàn kết chặt chẽ dưới lá cờ bách
chiến bách thắng của Đảng cộng sản Việt Nam, ra sức thi hành Hiến pháp, giành
những thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM - CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập,
có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời,
vùng biển và các hải đảo.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước chuyên
chính vô sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước đó là thực hiện quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân tiến hành đồng thời
ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ
thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật
là then chốt; xoá bỏ chế độ người bóc lột người; đập tan mọi sự chống đối của
bọn phản cách mạng trong nước, mọi hành động xâm lược và phá hoại của kẻ thù
bên ngoài; xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản;
góp phần củng cố hoà bình và đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế
giới.
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người chủ tập thể
là nhân dân lao động bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể,
tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa và những người lao động khác, mà nòng cốt
là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nhà nước bảo đảm
không ngừng hoàn chỉnh và củng cố chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của
nhân dân lao động về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; làm chủ
trong phạm vi cả nước, từng địa phương, từng cơ sở; làm chủ xã hội, làm chủ
thiên nhiên, làm chủ bản thân.
Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến
đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác -
Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố
chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân Việt Nam.
Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống
nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt nam, bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ.
Nhà nước bảo vệ, tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân
tộc, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn và phát
huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.
Nhà nước có kế hoạch xoá bỏ từng bước sự chênh lệch giữa các
dân tộc về trình độ phát triển kinh tế và văn hoá.
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân.
Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là cơ sở chính trị của
hệ thống cơ quan Nhà nước.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan khác của
Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
kín.
Cử tri có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân, nếu đại biểu đó không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Tất cả các cơ quan Nhà nước và nhân viên Nhà nước phải hết
lòng hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nghiêm cấm mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - bao gồm các chính đảng, Tổng công
đoàn Việt Nam, tổ chức liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam, Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam và các thành viên khác
của Mặt trận - là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước.
Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường
sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và
củng cố chính quyền nhân dân, giáo dục và động viên nhân dân đề cao ý thức
làm chủ tập thể, ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Tổng công đoàn Việt Nam là tổ chức quần chúng rộng lớn nhất
của giai cấp công nhân Việt Nam, là trường học chủ nghĩa cộng sản, trường học
quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước.
Trong phạm vi chức năng của mình, công đoàn tham gia công việc
Nhà nước và kiểm tra hoạt động của cơ quan Nhà nước, tham gia quản lý xí
nghiệp; giáo dục công nhân, viên chức; tổ chức phong trào thi đua xã hội chủ
nghĩa; cùng với cơ quan Nhà nước chăm lo đời sống và bảo đảm quyền lợi của
công nhân, viên chức.
Tập thể nhân dân lao động ở cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã,
khu dân cư và các đơn vị cơ sở khác tham gia công việc của Nhà nước và xã
hội, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá, bảo vệ của công, giữ
gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng
ở cơ sở.
Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, nhân viên Nhà
nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp
hành Hiến pháp, pháp luật, kiên quyết đấu tranh để phòng ngừa và chống các
tội phạm, các việc làm vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là thiêng liêng và bất khả
xâm phạm.
Mọi âm mưu và hành động chống lại độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chống lại sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội đều bị nghiêm trị.
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tăng cường tình hữu
nghị anh em, tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác về mọi mặt với Liên
Xô, Lào, Cam-pu-chia và các nước xã hội chủ nghĩa khác trên cơ sở chủ nghĩa
Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản; bảo vệ và phát triển quan hệ hữu
nghị với các nước láng giềng, đoàn kết với nhân dân các nước đang đấu tranh
vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội; thực hiện chính sách cùng tồn tại hoà
bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tích cực ủng hộ
và góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc,
chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chủ nghĩa bá quyền, chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
CHẾ ĐỘ KINH TẾ
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ một xã hội mà nền
kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ quan
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, xây dựng một xã hội có kinh tế công -
nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học, kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng
vững mạnh, có đời sống văn minh và hạnh phúc.
Mục đích chính sách kinh tế của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng
tăng của cả xã hội bằng cách không ngừng phát triển sản xuất, tăng năng suất
lao động xã hội, trên cơ sở chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa và nền
khoa học, kỹ thuật hiện đại.
Nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà.
Nhà nước ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý
trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp công nghiệp với
nông nghiệp trong cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp; vừa xây dựng
kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung
ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết
hợp phát triển lực lượng sản xuất với thiết lập và hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ hợp
tác, tương trợ với các nước anh em trong Cộng đồng xã hội chủ nghĩa theo tinh
thần chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế
với các nước khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, bình đẳng
và các bên cùng có lợi.
Nhà nước quy định chế độ và thi hành những biện pháp cần thiết
bảo đảm cho nhân dân lao động sử dụng đầy đủ quyền làm chủ tập thể về tư liệu
sản xuất và lực lượng lao động, về sản xuất và phân phối, về khoa học và kỹ
thuật, làm cho sự nghiệp phát triển kinh tế thật sự là sự nghiệp của toàn
dân.
Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn,
sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và
củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một
nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh
thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể
của nhân dân lao động.
Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân và được phát triển ưu tiên.
Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên
trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa, các xí nghiệp công nghiệp, nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp quốc doanh; ngân hàng và tổ
chức bảo hiểm; công trình phục vụ lợi ích công cộng; hệ thống đường sắt,
đường bộ, đường sông, đường biển, đường không; đê điều và công trình thuỷ lợi
quan trọng; cơ sở phục vụ quốc phòng; hệ thống thông tin liên lạc, phát
thanh, truyền hình, điện ảnh; cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, cơ sở văn
hoá và xã hội cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước -
đều thuộc sở hữu toàn dân.
Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung, nhằm
bảo đảm đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm.
Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử
dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy định của pháp luật.
Tập thể hoặc cá nhân sử dụng đất đai đều có trách nhiệm bảo
vệ, bồi bổ và khai thác theo chính sách và kế hoạch của Nhà nước.
Đất dành cho nông nghiệp và lâm nghiệp không được dùng vào
việc khác, nếu không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép.
Nhà nước giữ độc quyền về ngoại thương và mọi quan hệ kinh tế
khác với nước ngoài.
Các cơ sở kinh tế quốc doanh hoạt động theo phương hướng,
nhiệm vụ của kế hoạch Nhà nước; thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, chế độ
thủ trưởng và chế độ trách nhiệm cá nhân; bảo đảm việc công nhân, viên chức
tham gia quản lý; nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng phục vụ và hiệu
quả kinh tế; thực hành tiết kiệm; bảo đảm tích luỹ cho Nhà nước và xí nghiệp;
bảo vệ nghiêm ngặt tài sản Nhà nước; chăm lo cải thiện điều kiện làm việc và
đời sống của công nhân, viên chức.
Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ kinh tế hợp tác xã phát triển.
Tài sản của hợp tác xã và các tổ chức tập thể khác của nhân
dân lao động được Nhà nước bảo vệ theo pháp luật.
Hợp tác xã kinh doanh theo phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch của
cả nước và của địa phương, bảo đảm không ngừng phát triển sản xuất và củng cố
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của xã
viên, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước, đồng thời tăng tích luỹ cho hợp tác
xã.
Quyền làm chủ tập thể của xã viên trong việc quản lý hợp tác
xã phải được tôn trọng và phát huy.
Kinh tế phụ gia đình xã viên được Nhà nước thừa nhận và bảo hộ
theo pháp luật.
Nhà nước khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nông dân cá thể,
người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác tiến lên con
đường làm ăn tập thể, tổ chức hợp tác xã sản xuất và các hình thức hợp tác,
tương trợ khác theo nguyên tắc tự nguyện.
Những người buôn bán nhỏ được hướng dẫn và giúp đỡ chuyển dần
sang sản xuất hoặc làm những nghề thích hợp khác.
Pháp luật quy định phạm vi được phép lao động riêng lẻ trong
các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, mỹ nghệ, dịch
vụ.
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, những cơ sở kinh tế
của địa chủ phong kiến và tư sản mại bản đều bị quốc hữu hoá không bồi
thường.
Nhà nước tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần
kinh tế tư bản chủ nghĩa ở thành thị và nông thôn bằng những hình thức thích
hợp.
Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng
trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ.
Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân.
Khi thật cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước có thể trưng
mua, trưng dụng hoặc trưng thu có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc của tập
thể.
Thể thức trung mua, trưng dụng, trưng thu do pháp luật quy
định.
Nhà nước căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá và
củng cố quốc phòng mà phân bố và sử dụng hợp lý lực lượng lao động xã hội
trong cả nước, ở từng địa phương và cơ sở.
Nhà nước giáo dục và vận động toàn dân cần kiệm xây dựng chủ
nghĩa xã hội; quy định và kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng lực lượng lao động,
vật tư và tiền vốn trong mọi hoạt động kinh tế và quản lý Nhà nước.
Nhà nước và các tổ chức kinh tế tập thể áp dụng nguyên tắc làm
theo năng lực, hưởng theo lao động, đồng thời tăng dần phúc lợi xã hội theo
trình độ phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Nhà nước phối hợp với công đoàn và các đoàn thể nhân dân khác,
kết hợp giáo dục chính trị, đề cao kỷ luật lao động với khuyến khích bằng lợi
ích vật chất để đẩy mạnh phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống
nhất; đề cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính chủ động và tính sáng tạo
của các cấp, các ngành, các đơn vị cơ sở và cá nhân, để xây dựng và thực hiện
kế hoạch Nhà nước; huy động mọi lực lượng lao động, tài nguyên thiên nhiên và
cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước, bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân phát
triển toàn diện, cân đối, vững chắc, với nhịp độ nhanh và hiệu quả cao.
Nhà nước tổ chức nền sản xuất xã hội theo hướng sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa; xây dựng và hoàn thiện không ngừng hệ thống quản lý kinh
tế; vận dụng đúng đắn các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội; áp dụng
nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với
quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ; kết hợp lợi ích của Nhà nước, của
tập thể và của người lao động; xây dựng và bảo đảm tôn trọng pháp luật kinh
tế.
Mọi hoạt động đầu cơ, tích trữ, kinh doanh bất hợp pháp, làm
rối loại thị trường, phá hoại kế hoạch Nhà nước, tham ô, trộm cắp, hối lộ
hoặc lãng phí, vô trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà
nước và của nhân dân đều bị pháp luật nghiêm trị.
Các cơ quan Nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang
nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ, cải tạo và
tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường
sống.
VĂN HOÁ, GIÁO DỤC, KHOA HỌC, KỸ THUẬT
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đẩy mạnh cách mạng tư
tưởng và văn hoá, xây dựng nền văn hoá mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và
tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân; xây dựng con người mới có ý
thức làm chủ tập thể, yêu lao động, quý trọng của công, có văn hoá, có kiến
thức khoa học, kỹ thuật, có sức khoẻ, yêu nước xã hội chủ nghĩa và có tinh
thần quốc tế vô sản.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng chỉ đạo sự phát triển của
xã hội Việt Nam.
Nhà nước tuyên truyền, giáo dục sâu rộng chủ nghĩa Mác -
Lênin, đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam, Hiến pháp và pháp
luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ và phát triển những
giá trị văn hoá và tinh thần của dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hoá thế giới;
chống các tư tưởng phong kiến, tư sản và ảnh hưởng của văn hoá đế quốc, thực
dân; phê phán tư tưởng tiểu tư sản; xây dựng nếp sống xã hội chủ nghĩa, xoá
bỏ nếp sống lạc hậu, bài trừ mê tín dị đoan.
Nhà nước chăm lo việc tăng cường cơ sở vật chất, quy định chế
độ và thi hành những biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động về văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật; phát huy tính
tích cực và tính sáng tạo của nhân dân; làm cho sự nghiệp xây dựng nền văn
hoá mới và con người mới thật sự là của toàn dân và tạo điều kiện để toàn dân
được hưởng những thành tựu tốt đẹp của văn hoá dân tộc và văn hoá thế giới.
Nền giáo dục Việt Nam không ngừng được phát triển và cải tiến
theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất,
nhà trường gắn liền với xã hội, nhằm đào tạo có chất lượng những người lao
động xã hội chủ nghĩa và bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Sự nghiệp giáo dục do Nhà nước thống nhất quản lý.
Nhà nước chăm lo phát triển cân đối hệ thống giáo dục: giáo
dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục đại học;
phát triển các trường dạy nghề, trường vừa học vừa làm, hệ thống học tại
chức; hoàn thành thanh toán nạn mù chữ, tăng cường công tác bổ túc văn hoá,
không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và nghề nghiệp của toàn dân.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, gia đình và xã hội cùng
với nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.
Nhà nước đẩy mạnh cách mạng khoa học - kỹ thuật nhằm phát
triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống nhân dân và củng cố quốc
phòng, xây dựng nền khoa học, kỹ thuật tiên tiến của nước ta.
Khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật được
phát triển mạnh mẽ.
Nhà nước chăm lo việc phổ biến và giáo dục khoa học và kỹ
thuật; gắn liền việc giảng dạy, nghiên cứu với sản xuất, đời sống và quốc
phòng; phát triển và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học,
cán bộ và công nhân kỹ thuật; khuyến khích nghiên cứu, sáng chế, phát minh;
chú trọng nghiên cứu ứng dụng; phát huy tinh thần tự lực tự cường, chủ động,
sáng tạo, đồng thời vận dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật tiên tiến
của thế giới; tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học, kỹ thuật.
Văn học, nghệ thuật Việt Nam được xây dựng trên lập trường,
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và theo đường lối văn nghệ của Đảng cộng
sản Việt Nam.
Các hoạt động văn nghệ chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp
đều được khuyến khích phát triển, nhằm giáo dục đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm cách mạng, nâng cao
trình độ thẩm mỹ và thoả mãn nhu cầu về văn hoá của nhân dân.
Công tác thông tin, báo chí, xuất bản, thư viện, phát thanh,
truyền hình, điện ảnh được phát triển và không ngừng nâng cao về trình độ
chính trị, tư tưởng và nghệ thuật, nhằm hướng dẫn dư luận xã hội, giáo dục
chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và động viên toàn dân ra sức thi đua
xã hội chủ nghĩa.
Các di tích lịch sử và văn hoá, các công trình mỹ thuật công
cộng, các danh lam, thắng cảnh được tu bổ và bảo vệ.
Công tác bảo tồn, bảo tàng được chú trọng.
Nhà nước chăm lo bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân;
xây dựng nền y học Việt nam theo phương hướng dự phòng; kết hợp y học, dược
học hiện đại với y học, dược học cổ truyền của dân tộc, kết hợp phòng bệnh
với chữa bệnh, lấy phòng bệnh là chính; kết hợp phát triển y tế Nhà nước với
phát triển y tế nhân dân đến tận cơ sở.
Nhà nước và xã hội bảo vệ bà mẹ và trẻ em; vận động sinh đẻ có
kế hoạch.
Nền thể dục, thể thao Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học
và nhân dân, được phát triển mạnh mẽ, cân đối, nhằm tăng cường sức khoẻ và
bồi dưỡng thể lực của nhân dân để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc.
Du lịch được khuyến khích và tổ chức chu đáo.
BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại trên cơ sở kết hợp xây dựng Tổ quốc với
bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh
của toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm
với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Các lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng
chiến đấu bảo vệ những thành quả của cách mạng, độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã
hội, tự do, hạnh phúc và lao động hoà bình của nhân dân, cùng toàn dân xây
dựng nước nhà.
Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng
cách mạng của nhân dân, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chăm lo công
nghiệp quốc phòng, huy động nhân lực, vật lực nhằm xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước.
Tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân phải
làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định.
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN
Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có
quốc tịch Việt Nam theo luật định.
Quyền và nghĩa vụ của công dân thể hiện chế độ làm chủ tập thể
của nhân dân lao động, kết hợp hài hoà những yêu cầu của cuộc sống xã hội với
tự do chân chính của cá nhân, bảo đảm sự nhất trí về lợi ích giữa Nhà nước,
tập thể và cá nhân theo nguyên tắc mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người.
Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm
tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội.
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Công dân có quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và
của xã hội.
Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội,
tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười
tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có
thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trừ những người mất trí
và những người bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tước các quyền đó.
Lao động là quyền, nghĩa vụ và vinh dự hàng đầu của công dân.
Công dân có quyền có việc làm. Người có sức lao động phải lao
động theo quy định của pháp luật.
Nhà nước dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá mà tạo
thêm việc làm, sắp xếp công việc căn cứ vào năng lực, nguyện vọng cá nhân và
yêu cầu của xã hội, nâng cao trình độ nghề nghiệp, bồi dưỡng sức lao động,
không ngừng cải thiện điều kiện làm việc của lao động chân tay và lao động
trí óc.
Nhà nước quy định và bảo đảm thực hiện các chế độ nhằm đề
phòng tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Người lao động có quyền nghỉ ngơi.
Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ an dưỡng và nghỉ
ngơi của công nhân, viên chức.
Công nhân, viên chức khi về hưu, già yếu, bệnh tật hoặc mất
sức lao động được hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội.
Nhà nước mở rộng dần sự nghiệp bảo hiểm xã hội theo trình độ
phát triển của nền kinh tế quốc dân và bảo đảm cho người lao động được hưởng
quyền lợi đó.
Nhà nước hướng dẫn các hợp tác xã thực hiện từng bước chế độ
bảo hiểm xã hội đối với xã viên.
Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục phổ thông bắt
buộc, thực hiện chế độ học không phải trả tiền và chính sách cấp học bổng,
tạo điều kiện thuận lợi cho công dân học tập.
Công dân có quyền được bảo vệ sức khoẻ.
Nhà nước thực hiện chế độ khám bệnh và chữa bệnh không phải
trả tiền.
Công dân có quyền có nhà ở.
Nhà nước mở rộng việc xây dựng nhà ở, đồng thời khuyến khích,
giúp đỡ tập thể và công dân xây dựng nhà ở theo quy hoạch chung, nhằm thực
hiện từng bước quyền đó. Việc phân phối diện tích nhà ở do Nhà nước quản lý
phải công bằng, hợp lý.
Phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.
Nhà nước và xã hội chăm lo nâng cao trình độ chính trị, văn
hoá, khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp của phụ nữ, không ngừng phát huy vai
trò của phụ nữ trong xã hội.
Nhà nước có chính sách lao động phù hợp với điều kiện của phụ
nữ. Phụ nữ và nam giới việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Phụ nữ có
quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương nếu là công
nhân, viên chức, hoặc hưởng phụ cấp sinh đẻ nếu là xã viên hợp tác xã.
Nhà nước và xã hội chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, nhà
trẻ, lớp mẫu giáo, nhà ăn công cộng và những cơ sở phúc lợi xã hội khác, tạo
điều kiện thuận lợi cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập và nghỉ ngơi.
Gia đình là tế bào của xã hội.
Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.
Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng,
vợ chồng bình đẳng.
Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con cái thành những công dân có
ích cho xã hội. Con cái có nghĩa vụ kính trọng và chăm sóc cha mẹ.
Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa
các con.
Nhà nước và xã hội chú trọng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
thiếu niên, nhi đồng, mở rộng dần việc đảm nhiệm nuôi dạy trẻ em, làm cho
sinh hoạt, học tập và trưởng thành của trẻ em được bảo đảm.
Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho thanh niên học tập, lao
động và giải trí, phát triển trí tuệ, năng khiếu và thể lực; chăm lo bồi
dưỡng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh
niên.
Thanh niên phải làm tròn nhiệm vụ lực lượng xung kích trong
phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trong cách
mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng
và văn hoá.
Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do
hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã
hội và của nhân dân.
Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng
các quyền đó.
Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi
ích của Nhà nước và của nhân dân.
Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào.
Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính
sách của Nhà nước.
Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể.
Không ai có thể bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án
nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân.
Việc bắt và giam giữ người phải theo đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình.
Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản,
danh dự và nhân phẩm.
Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không
đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Việc khám xét chỗ ở phải do
đại diện cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành, theo quy định của pháp
luật.
Bí mật thư tín, điện thoại, điện tín được bảo đảm.
Quyền tự do đi lại và cư trú được tôn trọng, theo quy định của
pháp luật.
Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, sáng tác văn
học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác.
Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ công dân theo đuổi sự nghiệp
khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật nhằm phục vụ đời sống, phục vụ công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bồi dưỡng, phát huy sở
trường và năng khiếu cá nhân.
Quyền lợi của tác giả và của người sáng chế, phát minh được
bảo đảm.
Công dân có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nào
của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức
xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ
quan, tổ chức và đơn vị đó.
Các điều khiếu nại và tố cáo phải được xem xét và giải quyết
nhanh chóng.
Mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải
được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được
bồi thường.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiến nại, tố cáo.
Nhà nước thực hiện chính sách ưu đãi đối với thương binh và
gia đình liệt sĩ, tạo điều kiện cho thương binh phục hồi chức năng lao động,
có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có cuộc sống ổn định.
Những người và những gia đình có công với cách mạng được khen
thưởng và chăm sóc.
Người già và người tàn tật không nơi nương tựa được Nhà nước
và xã hội giúp đỡ.
Trẻ mồ côi được Nhà nước và xã hội nuôi dạy.
Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của Việt kiều.
Công dân phải trung thành với Tổ quốc.
Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất đối với dân tộc.
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nghĩa vụ thiêng liêng và
quyền cao quý của công dân.
Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng
quốc phòng toàn dân.
Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật
lao động, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật
Nhà nước, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa.
Tài sản xã hội chủ nghĩa là thiêng liêng, không ai được xâm
phạm. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa.
Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và tham gia lao động công ích
theo quy định của pháp luật.
Những người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc,
vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức
hại thì được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phép cư trú.
QUỐC HỘI
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối
ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế và văn hoá, những quy tắc chủ yếu về
tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của
công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước.
Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp.
2- Làm luật và sửa đổi luật.
3- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp
và pháp luật.
4- Quyết định kế hoạch Nhà nước và phê chuẩn việc thực hiện kế
hoạch Nhà nước.
5- Quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phê chuẩn quyết
toán ngân sách Nhà nước.
6- Quy định tổ chức của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng
bộ trưởng, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện Kiểm
sát nhân dân.
7- Bầu và bãi miễn Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các thành
viên khác của Hội đồng Nhà nước; Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các thành viên
khác của Hội đồng bộ trưởng; Chánh án Toà án nhân dân tối cao; Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
8- Quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, các Uỷ ban
Nhà nước.
9- Xét báo cáo công tác của Hội đồng Nhà nước, của Hội đồng Bộ
trưởng, của Toà án nhân dân tối cao và của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao.
10- Quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế.
11- Quyết định việc phân vạch địa giới các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính tương đương.
12- Quyết định đại xá.
13- Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình.
14- Quyết định giao cho các tổ chức xã hội việc thực hiện một
số nhiệm vụ thuộc chức năng quản lý của Nhà nước.
15- Phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước quốc tế theo đề nghị
của Hội đồng Nhà nước.
Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn
khác, khi xét thấy cần thiết.
Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc hội là năm năm.
Hai tháng trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, phải bầu xong Quốc
hội khoá mới. Thể lệ bầu cử và số đại biểu Quốc hội do luật định.
Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định kéo dài
nhiệm kỳ của mình và quyết định những biện pháp cần thiết bảo đảm hoạt động
của Quốc hội.
Quốc hội họp thường lệ mỗi năm hai kỳ, do Hội đồng Nhà nước
triệu tập.
Hội đồng Nhà nước có thể triệu tập Quốc hội họp bất thường
theo quyết định của mình, theo yêu cầu của Hội đồng bộ trưởng hoặc của ít
nhất là một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội.
Quốc hội khoá mới được triệu tập chậm nhất là hai tháng sau
cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội.
Kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội do Chủ tịch Hội đồng Nhà
nước khai mạc. Chủ tịch Hội đồng Nhà nước chủ toạ các phiên họp cho đến khi
bầu Chủ tịch Quốc hội khoá mới.
Hội đồng Nhà nước, Hội đồng bộ trưởng, Chủ tịch Quốc hội, Hội
đồng quốc phòng, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc
hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các chính đảng, Tổng công đoàn Việt Nam, tổ chức liên
hiệp nông dân tập thể Việt Nam, Đoàn thành niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội.
Các luật và nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số
đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, trừ trường hợp sửa đổi Hiến pháp quy định
ở Điều 147.
Các luật phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày sau khi
đã được Quốc hội thông qua.
Quốc hội bầu ra Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội và
căn cứ vào báo cáo của Uỷ ban đó mà quyết định xác nhận tư cách đại biểu của
các đại biểu Quốc hội.
Quốc hội bầu ra Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội. Số Phó
Chủ tịch do Quốc hội định.
Chủ tịch Quốc hội chủ toạ các phiên họp của Quốc hội; bảo đảm
việc thi hành nội quy của Quốc hội; giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội; điều
hoà và phối hợp hoạt động của các Uỷ ban của Quốc hội; chứng thực những luật
và những nghị quyết đã được Quốc hội thông qua; thực hiện quan hệ đối ngoại
của Quốc hội.
Các Phó Chủ tịch giúp Chủ tịch Quốc hội thực hiện những nhiệm
vụ và quyền hạn trên đây.
Chủ tịch Quốc hội có quyền tham dự các phiên họp của Hội đồng
Nhà nước.
Quốc hội bầu ra Hội đồng quốc phòng.
Hội đồng quốc phòng động viên mọi lực lượng và khả năng của
nước nhà để bảo vệ Tổ quốc.
Trong trường hợp có chiến tranh, Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà
nước có thể giao cho Hội đồng quốc phòng những nhiệm vụ và quyền hạn đặc
biệt.
Quốc hội bầu ra Hội đồng dân tộc.
Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội và Hội
đồng Nhà nước những vấn đề dân tộc; giúp Quốc hội và Hội đồng Nhà nước giám
sát việc thi hành chính sách dân tộc.
Chủ tịch Hội đồng dân tộc có quyền tham dự các phiên họp của
Hội đồng Nhà nước.
Quốc hội thành lập các Uỷ ban thường trực của Quốc hội.
Các Uỷ ban thường trực nghiên cứu, thẩm tra những dự án luật,
dự án pháp lệnh và dự án khác hoặc những báo cáo mà Quốc hội và Hội đồng Nhà
nước giao cho; kiến nghị với Quốc hội và Hội đồng Nhà nước những vấn đề thuộc
phạm vi hoạt động của Uỷ ban; giúp Quốc hội và Hội đồng Nhà nước thực hiện
quyền giám sát.
Khi xét thấy cần thiết, Quốc hội và Hội đồng Nhà nước có thể
thành lập các Uỷ ban lâm thời để làm những nhiệm vụ nhất định.
Hội đồng quốc phòng, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc
hội có quyền yêu cầu các thành viên của Hội đồng bộ trưởng và những nhân viên
hữu quan khác trình bày hoặc cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết.
Những người được yêu cầu có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó.
Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự
giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt
động của mình và của Quốc hội, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri,
xem xét và giúp giải quyết những điều khiếu nại và tố cáo của nhân dân.
Đại biểu Quốc hội tuyên truyền, phổ biến pháp luật và chính
sách của Nhà nước, động viên nhân dân tham gia quản lý Nhà nước.
Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Hội đồng Bộ trưởng và các
thành viên của Hội đồng Bộ trưởng, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Cơ quan hoặc người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội
trong kỳ họp của Quốc hội. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể
quyết định cho trả lời trước Hội đồng Nhà nước hoặc tại kỳ họp sau của Quốc
hội.
Đại biểu Quốc hội có quyền kiến nghị với các cơ quan Nhà nước.
Những người phụ trách các cơ quan này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét
và giải quyết những kiến nghị của đại biểu.
Không có sự đồng ý của Quốc hội và, trong thời gian Quốc hội
không họp, không có sự đồng ý của Hội đồng Nhà nước, thì không được bắt giam
và truy tố đại biểu Quốc hội.
Nếu vì phạm pháp quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì
cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước xét
và quyết định.
Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để
đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu.
HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC
Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên
của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Hội đồng Nhà nước thực hiện những nhiệm vụ và sử dụng những
quyền hạn được Hiếp pháp, các luật và nghị quyết của Quốc hội giao cho, quyết
định những vấn đề quan trọng về xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc,
giám sát việc thi hành Hiến pháp, các luật, pháp lệnh, nghị quyết của
Quốc hội và của Hội đồng Nhà nước, giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Hội đồng Nhà nước, thông qua Chủ tịch Hội đồng, thay mặt nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội.
Hội đồng Nhà nước, được bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội,
gồm có:
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước,
Các Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước,
Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước,
Các uỷ viên Hội đồng Nhà nước.
Số Phó Chủ tịch và uỷ viên Hội đồng Nhà nước do Quốc hội định.
Thành viên của Hội đồng Nhà nước không thể đồng thời là thành
viên của Hội đồng Bộ trưởng.
Hội đồng Nhà nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Tuyên bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội.
2- Triệu tập các kỳ họp của Quốc hội.
3- Công bố luật.
4- Ra Pháp lệnh.
5- Giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh.
6- Quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân.
7- Giám sát công tác của Hội đồng bộ trưởng, của Toà án nhân
dân tối cao và của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
8- Đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những Nghị
quyết, Nghị định, Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng trái với Hiến pháp, Luật
và Pháp lệnh.
9- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân các
cấp, nhằm phát huy chức năng cơ quan đại biểu nhân dân của Hội đồng nhân dân.
10- Sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của
các Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương
đương; giải tán các Hội đồng nói trên trong trường hợp các Hội đồng đó làm thiệt
hại nghiêm trọng đến quyền lợi của nhân dân.
11- Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định việc thành
lập hoặc bãi bỏ các bộ, các Uỷ ban Nhà nước.
12- Trong thời gian Quốc hội không họp, cử và bãi miễn các Phó
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ trưởng, các Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước.
13- Cử và bãi miễn các Phó Chánh án, Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân của Toà án nhân dân tối cao; cử và bãi miễn các Phó Viện trưởng và
kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
14- Bổ nhiệm, bãi miễn và triệu hồi các đại diện toàn quyền
ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài và ở các
tổ chức quốc tế.
15- Tiếp nhận các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước
ngoài.
16- Phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước quốc tế, trừ trường
hợp xét thấy cần trình Quốc hội quyết định.
17- Quy định hàm và cấp quân sự, ngoại giao và những hàm và
cấp khác.
18- Quy định và quyết định việc tặng thưởng huân chương, huy
chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước.
19- Quyết định đặc xá.
20- Trong thời gian Quốc hội không họp, tuyên bố tình trạng
chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược.
21- Quyết định việc tổng động viên hoặc động viên cục bộ, việc
giới nghiêm trong toàn quốc hoặc từng địa phương.
Những quyết định của Hội đồng Nhà nước nói ở các điểm 11, 12
và 20 phải trình Quốc hội phê chuẩn trong kỳ họp gần nhất của Quốc hội.
Quốc hội có thể giao cho Hội đồng Nhà nước những nhiệm vụ và
quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết.
Nhiệm kỳ của Hội đồng Nhà nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Hội đồng Nhà nước tiếp tục làm
nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Hội đồng Nhà nước mới.
Các pháp lệnh và nghị quyết của Hội đồng Nhà nước phải được
quá nửa tổng số thành viên của Hội đồng Nhà nước biểu quyết tán thành.
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang
nhân dân toàn quốc và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng.
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất.
Hội đồng Bộ trưởng thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của
Nhà nước; tăng cường hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở;
bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành pháp luật; phát huy quyền làm chủ tập thể
của nhân dân; bảo đảm xây dựng chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước Hội đồng Nhà nước.
Hội đồng Bộ trưởng gồm có:
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
Các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
Các bộ trưởng và Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước.
Chủ tịch Tổng công đoàn Việt Nam có quyền tham dự hội nghị Hội
đồng Bộ trưởng.
Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người
phụ trách chính của các đoàn thể nhân dân trong Mặt trận được mời tham dự hội
nghị Hội đồng bộ trưởng khi cần thiết.
Hội đồng Bộ trưởng có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật.
2- Trình dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác trước
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.
3- Lập dự án kế hoạch Nhà nước và dự toán ngân sách Nhà nước
trình Quốc hội; tổ chức thực hiện kế hoạch Nhà nước và ngân sách Nhà nước.
4- Thống nhất quản lý việc cải tạo, xây dựng và phát triển nền
kinh tế quốc dân, việc xây dựng và phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ
thuật.
5- Chăm lo cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân
dân.
6- Bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân và tạo điều kiện
cho công dân hưởng quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ của mình.
7- Tổ chức quốc phòng toàn dân và xây dựng các lực lượng vũ
trang nhân dân.
8- Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
9- Thi hành việc động viên, giới nghiêm và mọi biện pháp cần
thiết để bảo vệ Tổ quốc.
10- Thi hành những biện pháp nhằm bảo vệ tài sản xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và của xã hội.
11- Thống nhất quản lý tài chính, tiền tệ và tín dụng.
12- Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê và thống kê của Nhà
nước.
13- Tổ chức và lãnh đạo công tác trọng tài Nhà nước về kinh
tế.
14- Tổ chức và lãnh đạo công tác bảo hiểm Nhà nước.
15- Tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra và kiểm tra của Nhà
nước.
16- Tổ chức và quản lý công tác đối ngoại của Nhà nước; chỉ
đạo việc thực hiện các hiệp ước và hiệp định đã ký kết.
17- Xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước từ Trung ương
đến cơ sở; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ Nhà nước.
18- Lãnh đạo công tác của các bộ và các cơ quan khác thuộc Hội
đồng Bộ trưởng.
19- Bảo đảm cho Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện nhiệm vụ
và quyền hạn của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương.
20- Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân các cấp.
21- Tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các thành viên của Mặt trận hoạt động.
22- Tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến
pháp và pháp luật trong nhân dân.
23- Đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết
định, chỉ thị, thông tư không thích đáng của các bộ và các cơ quan khác thuộc
Hội đồng Bộ trưởng.
24- Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích đáng
của các Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương
đương, đồng thời đề nghị Hội đồng Nhà nước sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị
quyết đó.
25- Đình chỉ việc thi hành và sử đổi hoặc bãi bỏ những quyết
định và chỉ thị không thích đáng của Uỷ ban nhân dân các cấp.
26- Quyết định việc phân vạch địa giới các đơn vị hành chính
dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính tương
đương.
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước có thể giao cho Hội đồng bộ
trưởng những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết.
Nhiệm kỳ của Hội đồng Bộ trưởng theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Hội đồng Bộ trưởng tiếp tục làm
nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Hội đồng Bộ trưởng mới.
Hội đồng Bộ trưởng căn cứ vào Hiến pháp, các luật và pháp
lệnh, ra những Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư và kiểm
tra việc thi hành những văn bản đó.
Các Nghị quyết, Nghị định và Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng
phải được quá nửa tổng số thành viên của Hội đồng Bộ trưởng biểu quyết tán
thành.
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lãnh đạo công tác của Hội đồng Bộ
trưởng, đôn đốc, kiểm tra việc thi hành những quyết định của Quốc hội, Hội
đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng và thay mặt Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo công
tác đối với các bộ, các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng và Uỷ ban nhân
dân các cấp.
Các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng giúp Chủ tịch và có thể
được uỷ nhiệm thay Chủ tịch khi Chủ tịch vắng mặt.
Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ
trưởng và thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng chịu trách
nhiệm tổ chức và chỉ đạo ngành mình trong phạm vi cả nước.
Các Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ
trưởng căn cứ vào Luật của Quốc hội, pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước và Nghị
quyết, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Hội đồng Bộ trưởng, ra
những Quyết định, Chỉ thị, Thông tư và kiểm tra việc thi hành những văn bản
đó.
Mỗi thành viên Hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm cá nhân về
phần công tác của mình trước Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng,
và cùng với các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Hội
đồng Bộ trưởng trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN NHÂN DÂN
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn
vị hành chính tương đương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành
phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;
Huyện chia thành xã và thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã
chia thành phường và xã; quận chia thành phường.
Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương,
do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và
chính quyền cấp trên.
Hội đồng nhân dân quyết định và thực hiện các biện pháp nhằm
xây dựng địa phương về mọi mặt, bảo đảm phát triển kinh tế và văn hoá, nâng
cao đời sống của nhân dân địa phương và hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao
cho.
Trong hoạt động của mình, Hội đồng nhân dân dựa vào sự cộng
tác chặt chẽ của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và sự tham gia rộng rãi của
công dân.
Hội đồng nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được tôn trọng và thi
hành nghiêm chỉnh ở địa phương; quyết định các biện pháp thi hành chính sách
của Nhà nước và nhiệm vụ do cấp trên giao cho.
2- Quyết định kế hoạch và dự toán ngân sách của địa phương,
phê chuẩn việc thực hiện kế hoạch và quyết toán ngân sách của địa phương.
3- Quyết định các vấn đề về sản xuất, phân phối, lưu thông,
văn hoá, xã hội và dịch vụ ở địa phương.
4- Bảo đảm việc xây dựng quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ
trang nhân dân ở địa phương.
5- Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
6- Bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa.
7- Bảo đảm quyền bình đẳng của các dân tộc.
8- Bảo đảm cho công dân được hưởng quyền lợi và làm tròn nghĩa
vụ của mình.
9- Bầu và bãi miễn các thành viên của Uỷ ban nhân dân và các
thành viên của Toà án nhân dân cùng cấp.
10- Sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của
Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoặc của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp.
11- Giải tán Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp khi Hội đồng
nhân dân này làm thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi của nhân dân.
Nghị quyết giải tán đó phải được sự phê chuẩn của Hội đồng
nhân dân cấp trên trực tiếp trước khi thi hành. Nghị quyết giải tán của Hội
đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương phải
được sự phê chuẩn của Hội đồng Nhà nước trước khi thi hành.
12- Trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, giám sát
việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, xí nghiệp và các tổ chức khác của
cấp trên ở địa phương.
Nhiệm kỳ của mỗi khoá Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và cấp tương đương là bốn năm.
Nhiệm kỳ của mỗi khoá Hội đồng nhân dân các cấp khác là hai
năm.
Hội đồng nhân dân, căn cứ vào pháp luật của Nhà nước và quyết
định của cấp trên, ra những nghị quyết và kiểm tra việc thi hành những nghị
quyết đó.
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải được quá nửa tổng số đại
biểu Hội đồng nhân dân biểu quyết tán thành.
Hội đồng nhân dân thành lập các ban cần thiết để giúp Hội đồng
trong việc quyết định những chủ trương, biện pháp công tác ở địa phương và
kiểm tra việc thi hành pháp luật, chính sách của Nhà nước và nghị quyết của
Hội đồng.
Đại biểu Hội đồng nhân dân phải liên hệ chặt chẽ với cử tri,
chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri
về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu và kiến
nghị của cử tri, xem xét và giúp giải quyết những điều khiếu nại và tố cáo của
nhân dân.
Đại biểu Hội đồng nhân dân tuyên truyền, phổ biến pháp luật,
chính sách của Nhà nước và nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên nhân
dân địa phương tham gia quản lý Nhà nước.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Uỷ ban nhân dân
và các cơ quan Nhà nước khác của địa phương. Cơ quan bị chất vấn phải trả lời
trước Hội đồng nhân dân trong thời hạn do luật định.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan
Nhà nước ở địa phương. Những người phụ trách các cơ quan này có trách nhiệm
tiếp đại biểu, xem xét và giải quyết kiến nghị của đại biểu.
Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, là
cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương.
Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội
đồng nhân dân cùng cấp và trước Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp; Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước Hội đồng
Bộ trưởng.
Mỗi thành viên Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân về
phần công tác của mình trước Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, và cùng với
các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Uỷ ban nhân dân
trước Hội đồng nhân dân.
Uỷ ban nhân dân gồm có Chủ tịch, một hoặc nhiều Phó Chủ tịch,
uỷ viên thư ký và các uỷ viên khác.
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người phụ trách
chính của các đoàn thể nhân dân trong Mặt trận ở địa phương được mời tham dự
hội nghị Uỷ ban nhân dân cấp mình khi cần thiết.
Uỷ ban nhân dân triệu tập hội nghị Hội đồng nhân dân cùng cấp;
chấp hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định, chỉ thị của các cơ
quan hành chính cấp trên; quản lý công tác hành chính ở địa phương; chỉ đạo
các ngành, các cấp thuộc quyền mình nhằm hoàn thành kế hoạch Nhà nước, phát
triển kinh tế và văn hoá, củng cố quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân;
xét và giải quyết các điều khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của nhân dân.
Uỷ ban nhân dân các cấp, chiếu theo quyền hạn do luật định, ra
những quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó.
Uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc
bãi bỏ những quyết định không thích đáng của các ngành thuộc quyền mình và
của Uỷ ban nhân dân cấp dưới, đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không
thích đáng của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp, đồng thời đề nghị Hội
đồng nhân dân cấp mình sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó.
Uỷ ban nhân dân tạo điều kiện cho các đại biểu Hội đồng nhân
dân và các ban của Hội đồng hoạt động.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm điều hoà, phối hợp
hoạt động của các ban do Hội đồng nhân dân lập ra.
Nhiệm kỳ của Uỷ ban nhân dân theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân
dân.
Khi Hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ, Uỷ ban nhân dân tiếp tục
làm nhiệm vụ cho đến khi Hội đồng nhân dân khoá mới bầu ra Uỷ ban nhân dân
mới.
Trong trường hợp Hội đồng nhân dân bị giải tán, Uỷ ban nhân
dân cấp trên trực tiếp chỉ định Uỷ ban nhân dân lâm thời để đảm nhiệm công
tác cho đến khi Hội đồng nhân dân khoá mới bầu ra Uỷ ban nhân dân mới. Trong
trường hợp Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc cấp
tương đương bị giải tán thì Hội đồng bộ trưởng chỉ định Uỷ ban nhân dân lâm
thời.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự tôn trọng
tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể và
quyền lợi chính đáng của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các
Toà án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Trong tình hình đặc biệt hoặc trong trường hợp cần xét xử
những vụ án đặc biệt, Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước có thể quyết định thành
lập Toà án đặc biệt.
ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải
quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân, theo quy
định của pháp luật.
Chế độ bầu cử thẩm phán được thực hiện ở Toà án nhân dân các
cấp.
Nhiệm kỳ của Chánh án, Phó Chánh án và thẩm phán Toà án nhân
dân các cấp theo nhiệm kỳ của cơ quan bầu ra mình.
Việc xét xử ở Toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia,
theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với
thẩm phán.
Chế độ bầu cử hội thẩm nhân dân được thực hiện ở Toà án nhân
dân các cấp. Nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao là hai
năm rưỡi; nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương là hai
năm.
Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật.
Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định.
Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm.
Tổ chức luật sự được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự
khác về mặt pháp lý.
Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc
mình trước Toà án.
Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Toà án
nhân dân địa phương và các Toà án quân sự.
Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án đặc
biệt, trừ trường hợp Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước quy định khác khi thành
lập các Toà án đó.
Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Hội đồng Nhà nước.
Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực
pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân
tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ và cơ quan khác thuộc
Hội đồng Bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn
vị vũ trang nhân dân, các nhân viên Nhà nước và công dân, thực hành quyền
công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện Kiểm sát quân
sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi
trách nhiệm của mình.
Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao theo
nhiệm kỳ của Quốc hội.
Viện Kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo
của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân các địa phương chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao.
Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và kiểm sát viên Viện Kiểm
sát nhân dân địa phương do Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao bổ
nhiệm và bãi miễn.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng Nhà nước.
QUỐC KỲ, QUỐC HUY, QUỐC CA, THỦ ĐÔ
Quốc kỳ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật,
chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm
cánh.
Quốc huy nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn,
nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, chung quanh có bông lúa, ở dưới có
nửa bánh xe răng và dòng chữ: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc ca nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Quốc hội
thông qua.
Thủ đô nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội.
HIỆU LỰC CỦA HIẾN PHÁP VÀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ
bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.
Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến
pháp phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết
tán thành.
Bản Hiến pháp này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 7, nhất trí thông qua trong phiên họp ngày
18 tháng 12 năm 1980, hồi 15 giờ 25 phút./.
|
|||||||
|
Comments
Post a Comment