QUỐC HỘI
Số: Không số
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 15 tháng 04 năm 1992
|
|||||||
HIẾN PHÁP
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM
1992
________________________
LỜI NÓI ĐẦU
Trải qua mấy nghìn
năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh dũng
để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa,
kiên cường bất khuất của dân tộc và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam.
Từ năm 1930, dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, đầy gian khổ
hy sinh, làm Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời.
Tiếp đó, suốt mấy chục năm, nhân dân các dân tộc nước ta đã liên tục chiến
đấu, với sự giúp đỡ quý báu của bè bạn trên thế giới, nhất là các nước xã hội
chủ nghĩa và các nước láng giềng, lập nên những chiến công oanh liệt, đặc
biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh
thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân và đế quốc, giải phóng đất
nước, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân.
Ngày 2 tháng 7 năm 1976 Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã quyết định đổi
tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cả nước bước vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, ra sức xây dựng đất nước, kiên cường bảo vệ Tổ quốc
đồng thời làm nghĩa vụ quốc tế.
Qua các thời kỳ
kháng chiến kiến quốc, nước ta đã có Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959
và Hiến pháp năm 1980.
Từ năm 1986 đến nay,
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản
Việt Nam đề xướng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Quốc
hội quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để đáp ứng yêu cầu của tình hình và
nhiệm vụ mới.
Hiến pháp này quy
định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
các cơ quan Nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân
làm chủ, Nhà nước quản lý.
Dưới ánh sáng của
chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam nguyện
đoàn kết một lòng, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước, thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác với tất
cả các nước, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp, giành những thắng lợi to lớn
hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM –
CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
Nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời.
Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
Nhà nước bảo đảm và
không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi
hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước
giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Đảng cộng sản Việt
Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành
quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo
chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống
trên đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện
chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi
hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền
dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong
tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.
Nhà nước thực hiện
chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.
Nhân dân sử dụng
quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân.
Quốc hội, Hội đồng
nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Việc bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tiến hành theo nguyên tắc phổ thông,
bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Đại biểu Quốc hội bị
cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc
Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân.
Các cơ quan Nhà
nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ
nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát
của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch,
cửa quyền, tham nhũng.
Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí
về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân
dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến
pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử
và cán bộ, viên chức Nhà nước.
Nhà nước tạo điều
kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả.
Công đoàn là tổ chức
chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ
quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi
của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản
lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người
lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công dân thực hiện
quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham gia công việc của Nhà nước và
xã hội, có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, tổ chức đời
sống công cộng.
Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công
dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công
dân đều bị xử lý theo pháp luật.
Tổ quốc Việt Nam là
thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Mọi âm mưu và hành
động chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều
bị nghiêm trị theo pháp luật.
Nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu
và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính
trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng
và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác
với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp
phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
CHẾ ĐỘ KINH TẾ
Nhà nước phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ
sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể là nền tảng.
Mục đích chính sách
kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực
sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: kinh tế quốc
doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư
bản Nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường
thế giới.
Đất đai, rừng núi,
sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm
lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí
nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa
học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp
luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân.
Nhà nước thống nhất
quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục
đích và có hiệu quả.
Nhà nước giao đất
cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài.
Tổ chức và cá nhân
có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được
chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật.
Kinh tế quốc doanh
được củng cố và phát triển, nhất là trong những ngành và lĩnh vực then chốt,
giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Cơ sở kinh tế quốc
doanh được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sản xuất, kinh
doanh có hiệu quả.
Kinh tế tập thể do
công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức dưới
nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.
Nhà nước tạo điều
kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả.
Kinh tế cá thể, kinh
tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được
thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những
ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.
Kinh tế gia đình
được khuyến khích phát triển.
Các cơ sở sản xuất,
kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ
đối với Nhà nước, đều bình đẳng trước pháp luật, vốn và tài sản hợp pháp được
Nhà nước bảo hộ.
Doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế
trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Tài sản hợp pháp của
cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá.
Trong trường hợp
thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước
trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo
thời giá thị trường.
Thể thức trưng mua,
trưng dụng do luật định.
Nhà nước thống nhất
quản lý và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức quan
hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền và cùng có lợi, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước.
Nhà nước khuyến
khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù
hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở
hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá
nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá.
Nhà nước tạo điều
kiện thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước.
Nhà nước thống nhất
quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách; phân công
trách nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nước giữa các ngành, các cấp; kết hợp lợi
ích của cá nhân, của tập thể với lợi ích của Nhà nước.
Mọi hoạt động kinh
tế, xã hội và quản lý Nhà nước phải thực hành chính sách tiết kiệm.
Mọi hoạt động sản
xuất, kinh doanh bất hợp pháp, mọi hành vi phá hoại nền kinh tế quốc dân, làm
thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và
của công dân đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật.
Nhà nước có chính
sách bảo hộ quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng.
Cơ quan Nhà nước, đơn
vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các
quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi
trường.
Nghiêm cấm mọi hành
động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường.
VĂN HÓA, GIÁO DỤC,
KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ
Nhà nước và xã hội
bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế
thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại;
phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân.
Nhà nước thống nhất
quản lý sự nghiệp văn hoá. Nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hoá phản
động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục.
Nhà nước tạo điều
kiện để công dân phát triển toàn diện, giáo dục ý thức công dân, sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật, giữ gìn thuần phong mỹ tục, xây dựng gia
đình có văn hóa, hạnh phúc, có tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ
nghĩa, có tinh thần quốc tế chân chính, hữu nghị và hợp tác với các dân tộc
trên thế giới.
Văn học, nghệ thuật
góp phần bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn cao đẹp của người Việt Nam.
Nhà nước đầu tư phát
triển văn hoá, văn học, nghệ thuật, tạo điều kiện để nhân dân được thưởng
thức những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị; bảo trợ để phát triển các
tài năng sáng tạo văn hóa, nghệ thuật.
Nhà nước phát triển
các hình thức đa dạng của hoạt động văn học, nghệ thuật, khuyến khích các
hoạt động văn học, nghệ thuật quần chúng.
Nhà nước phát triển
công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất bản, thư
viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Nghiêm cấm những hoạt động
văn hoá, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức
và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam.
Nhà nước và xã hội
bảo tồn, phát triển các di sản văn hoá dân tộc; chăm lo công tác bảo tồn, bảo
tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo vệ và phát huy tác dụng của các di tích lịch sử,
cách mạng, các di sản văn hoá, các công trình nghệ thuật, các danh lam, thắng
cảnh.
Nghiêm cấm các hành
động xâm phạm đến các di tích lịch sử, cách mạng, các công trình nghệ thuật
và danh lam, thắng cảnh.
Giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu.
Nhà nước phát triển
giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Mục tiêu của giáo
dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân;
đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào
dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giầu nước mạnh,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhà nước thống nhất
quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế
hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng.
Nhà nước phát triển
cân đối hệ thống giáo dục: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiêp, giáo dục đại học và sau đại học, phổ cập giáo dục tiểu học, xoá
nạn mù chữ; phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập và các hình
thức giáo dục khác.
Nhà nước ưu tiên đầu
tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác.
Nhà nước thực hiện
chính sách ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, các vùng dân tộc
thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn.
Các đoàn thể nhân
dân, trước hết là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội,
các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh
niên, thiếu niên và nhi đồng.
Khoa học và công
nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Nhà nước xây dựng và
thực hiện chính sách khoa học, công nghệ quốc gia; xây dựng nền khoa học,
công nghệ tiên tiến; phát triển đồng bộ các ngành khoa học nhằm xây dựng luận
cứ khoa học cho việc định ra đường lối, chính sách và pháp luật, đổi mới công
nghệ, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất
lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế; góp phần bảo đảm quốc phòng, an
ninh quốc gia.
Nhà nước đầu tư và
khuyến khích tài trợ cho khoa học bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, ưu tiên cho
những hướng khoa học, công nghệ mũi nhọn; chăm lo đào tạo và sử dụng hợp lý
đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật nhất là những người có trình độ cao, công
nhân lành nghề và nghệ nhân; tạo điều kiện để các nhà khoa học sáng tạo và cống
hiến; phát triển nhiều hình thức tổ chức, hoạt động nghiên cứu khoa học, gắn
nghiên cứu khoa học với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp chặt chẽ
giữa nghiên cứu khoa học, đào tạo với sản xuất, kinh doanh.
Nhà nước đầu tư,
phát triển và thống nhất quản lý sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, huy
động và tổ chức mọi lực lượng xã hội xây dựng và phát triển nền y học Việt
Nam theo hướng dự phòng; kết hợp phòng bệnh với chữa bệnh; phát triển và kết
hợp y dược học cổ truyền với y dược học hiện đại; kết hợp phát triển y tế Nhà
nước với y tế nhân dân; thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người
dân được chăm sóc sức khoẻ.
Nhà nước ưu tiên
thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào miền núi và dân tộc
thiểu số.
Nghiêm cấm tổ chức
và tư nhân chữa bệnh, sản xuất, buôn bán thuốc chữa bệnh trái phép gây tổn
hại cho sức khoẻ của nhân dân.
Nhà nước, xã hội,
gia đình và công dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em; thực
hiện chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình.
Nhà nước và xã hội
phát triển nền thể dục, thể thao dân tộc, khoa học và nhân dân.
Nhà nước thống nhất
quản lý sự nghiệp phát triển thể dục, thể thao; quy định chế độ giáo dục thể
chất bắt buộc trong trường học; khuyến khích và giúp đỡ phát triển các hình
thức tổ chức thể dục, thể thao tự nguyện của nhân dân, tạo các điều kiện cần
thiết để không ngừng mở rộng các hoạt động thể dục, thể thao quần chúng, chú
trọng hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể thao.
Nhà nước và xã hội
phát triển du lịch, mở rộng hoạt động du lịch trong nước và du lịch quốc tế.
Nhà nước mở rộng
giao lưu và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực văn hoá, thông tin, văn học,
nghệ thuật, khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao.
BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT
NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân.
Nhà nước củng cố và
tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân nòng cốt là các lực
lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ
vững chắc Tổ quốc.
Cơ quan Nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng
và an ninh do pháp luật quy định.
Các lực lượng vũ
trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm
vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất
nước.
Nhà nước xây dựng
quân đội nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây
dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu trên cơ sở kết hợp
xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân
với sức mạnh của toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc
chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước xây dựng
công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào
nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định chính trị và các quyền tự do, dân
chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ
nghĩa, đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm.
Nhà nước phát huy
tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục
quốc phòng và an ninh cho toàn dân, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính
sách hậu phương quân đội, xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm trang bị
cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc
phòng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sĩ, công
nhân, nhân viên quốc phòng, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng
mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước.
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ
BẢN CỦA CÔNG DÂN
Công dân nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.
ở nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy
định trong Hiến pháp và luật.
Quyền của công dân
không tách rời nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước bảo đảm các
quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước
và xã hội.
Quyền và nghĩa vụ
của công dân do Hiến pháp và luật quy định.
Mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật.
Công dân có quyền
tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của
cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà
nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Công dân, không phân
biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn
hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu
cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân theo quy định của pháp luật.
Lao động là quyền và
nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước và xã hội
có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động.
Nhà nước ban hành
chính sách, chế độ bảo hộ lao động.
Nhà nước quy định
thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã
hội đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích
phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động.
Công dân có quyền tự
do kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Công dân có quyền sở
hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu
sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh
tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17
và Điều 18.
Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.
Học tập là quyền và
nghĩa vụ của công dân.
Bậc tiểu học là bắt
buộc, không phải trả học phí.
Công dân có quyền
học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức.
Học sinh có năng
khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng.
Nhà nước có chính
sách học phí, học bổng.
Nhà nước và xã hội
tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hoá và học nghề phù hợp.
Công dân có quyền
nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham
gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu
công nghiệp.
Công dân có quyền
được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ.
Nhà nước quy định
chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí.
Công dân có nghĩa vụ
thực hiện các quy định về vệ sinh phòng bệnh và vệ sinh công cộng.
Nghiêm cấm sản xuất,
vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma
tuý khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã
hội nguy hiểm.
Công dân có quyền
xây dựng nhà ở theo quy hoạch và pháp luật. Quyền lợi của người thuê nhà và
người có nhà cho thuê được bảo hộ theo pháp luật.
Công dân nữ và nam
có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia
đình.
Nghiêm cấm mọi hành
vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.
Lao động nữ và nam
việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế
độ thai sản. Phụ nữ là viên chức Nhà nước và người làm công ăn lương có quyền
nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của
pháp luật.
Nhà nước và xã hội
tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai
trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà
trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều
kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn
bổn phận của người mẹ.
Gia đình là tế bào
của xã hội.
Nhà nước bảo hộ hôn
nhân và gia đình.
Hôn nhân theo nguyên
tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Cha mẹ có trách
nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng
và chăm sóc ông bà, cha mẹ.
Nhà nước và xã hội
không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con.
Trẻ em được gia
đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục.
Thanh niên được gia
đình, Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát
triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức
công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đi đầu trong công cuộc lao động sáng
tạo và bảo vệ Tổ quốc.
Thương binh, bệnh
binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương
binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với
sức khoẻ và có đời sống ổn định.
Những người và gia
đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc.
Người già, người tàn
tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ.
Công dân có quyền tự
do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về
nước theo quy định của pháp luật.
Công dân có quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập
hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
Công dân có quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật.
Những nơi thờ tự của
các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.
Không ai được xâm
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm
trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Công dân có quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt, nếu
không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện
kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ
người phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình
thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.
Không ai bị coi là
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật.
Người bị bắt, bị
giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt
hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt,
giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm
minh.
Công dân có quyền
bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý
vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp
luật cho phép.
Thư tín, điện thoại,
điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc khám xét chỗ ở,
việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người
có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật.
Công dân có quyền
khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm
trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.
Việc khiếu nại, tố
cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật
quy định.
Mọi hành vi xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân
phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi
thường về vật chất và phục hồi danh dự.
Nghiêm cấm việc trả
thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu
khống, vu cáo làm hại người khác.
Nhà nước bảo hộ
quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Nhà nước tạo điều
kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ quan hệ gắn bó với gia đình và
quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.
Công dân phải trung
thành với Tổ quốc.
Phản bội Tổ quốc là
tội nặng nhất.
Bảo vệ Tổ quốc là
nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.
Công dân phải làm
nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân.
Công dân có nghĩa vụ
tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng.
Công dân có nghĩa vụ
tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công
cộng.
Công dân có nghĩa vụ
đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật.
Người nước ngoài cư
trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, được Nhà nước bảo
hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam.
Người nước ngoài đấu
tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình,
hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam xem xét việc cho cư trú.
QUỐC HỘI
Quốc hội là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định
những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Quốc hội có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Làm Hiến pháp và
sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh;
2- Thực hiện quyền
giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;
xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
3- Quyết định kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
4- Quyết định chính
sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và
phân bổ ngân sách Nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước; quy
định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;
5- Quyết định chính
sách dân tộc của Nhà nước;
6- Quy định tổ chức
và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương;
7- Bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ
tịch Quốc hội và các ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,
Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về việc thành lập Hội đồng quốc phòng và
an ninh; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính
phủ;
8- Quyết định thành
lập, bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ của Chính phủ; thành lập mới,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành
lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt;
9- Bãi bỏ các văn
bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến
pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;
10- Quyết định đại
xá;
11- Quy định hàm,
cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm,
cấp Nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà
nước;
12- Quyết định vấn
đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp
đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
13- Quyết định chính
sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế đã ký
kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước;
14- Quyết định việc
trưng cầu ý dân.
Nhiệm kỳ của mỗi
khoá Quốc hội là năm năm.
Hai tháng trước khi
Quốc hội hết nhiệm kỳ, Quốc hội khoá mới phải được bầu xong. Thể lệ bầu cử và
số đại biểu Quốc hội do luật định.
Trong trường hợp đặc
biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán
thành, thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình.
Quốc hội họp mỗi năm
hai kỳ do Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập.
Trong trường hợp Chủ
tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc
hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu
tập Quốc hội họp bất thường.
Kỳ họp thứ nhất của
Quốc hội khoá mới được triệu tập chậm nhất là hai tháng kể từ ngày bầu cử đại
biểu Quốc hội và do Chủ tịch Quốc hội khoá trước khai mạc và chủ tọa cho đến
khi Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội khoá mới.
Chủ tịch nước, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Chính
phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án
luật ra trước Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội có
quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc hội.
Thủ tục trình Quốc
hội dự án luật, kiến nghị về luật do luật định.
Luật, nghị quyết của
Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành,
trừ các trường hợp Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội quy định tại Điều 7,
rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội quy định tại Điều 85 và sửa đổi
Hiến pháp quy định tại Điều 147, thì phải được ít nhất là hai phần ba tổng số
đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Luật, nghị quyết của
Quốc hội phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày được thông
qua.
Quốc hội bầu Uỷ ban
thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội và căn cứ vào báo cáo của Uỷ ban mà quyết
định xác nhận tư cách đại biểu của đại biểu Quốc hội.
Uỷ ban thường vụ
Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.
Uỷ ban thường vụ
Quốc hội gồm có:
- Chủ tịch Quốc hội;
- Các Phó Chủ tịch
Quốc hội;
- Các ủy viên.
Số thành viên Uỷ ban
thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc
hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ.
Uỷ ban thường vụ
Quốc hội của mỗi khoá Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến
khi Quốc hội khoá mới bầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội mới.
Uỷ ban thường vụ
Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Công bố và chủ
trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội;
2- Tổ chức việc
chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội;
3- Giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh;
4- Ra pháp lệnh về
những vấn đề được Quốc hội giao;
5- Giám sát việc thi
hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc
hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
6- Giám sát và hướng
dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội
đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân
đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân;
7- Chỉ đạo, điều
hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội;
hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội;
8- Trong thời gian
Quốc hội không họp, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác
của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội;
9- Trong thời gian
Quốc hội không họp, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước
nhà bị xâm lược và trình Quốc hội phê chuẩn quyết định đó tại kỳ họp gần nhất
của Quốc hội;
10- Quyết định tổng
động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước
hoặc ở từng địa phương;
11- Thực hiện quan
hệ đối ngoại của Quốc hội;
12- Tổ chức trưng
cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội.
Chủ tịch Quốc hội
chủ toạ các phiên họp của Quốc hội; ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc
hội; lãnh đạo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; tổ chức việc thực hiện
quan hệ đối ngoại của Quốc hội; giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội.
Các Phó Chủ tịch
Quốc hội giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch.
Pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được quá nửa tổng số thành viên Uỷ
ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành. Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày
được thông qua, trừ trường hợp Chủ tịch nước trình Quốc hội xem xét lại.
Quốc hội bầu Hội
đồng dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên.
Hội đồng dân tộc
nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội những vấn đề về dân tộc; thực hiện quyền
giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số.
Trước khi ban hành
các quyết định về chính sách dân tộc, Chính phủ phải tham khảo ý kiến của Hội
đồng dân tộc.
Chủ tịch Hội đồng
dân tộc được tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, được mời
tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn việc thực hiện chính sách dân tộc.
Hội đồng dân tộc còn
có những nhiệm vụ, quyền hạn khác như các Uỷ ban của Quốc hội quy định tại
Điều 95.
Hội đồng dân tộc có
một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách.
Quốc hội bầu các Uỷ
ban của Quốc hội.
Các Uỷ ban của Quốc
hội nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự
án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao;
trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vị hoạt động của Uỷ ban.
Mỗi Uỷ ban có một số
thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách.
Hội đồng dân tộc và
các Uỷ ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Toà
án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và viên chức
Nhà nước hữu quan khác trình bày hoặc cung cấp tài liệu về những vấn đề cần
thiết. Người được yêu cầu có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó.
Các cơ quan Nhà nước
có trách nhiệm nghiên cứu và trả lời những kiến nghị của Hội đồng dân tộc và
các Uỷ ban của Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội là
người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho
nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước.
Đại biểu Quốc hội
phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và
phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ
quan Nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về
hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử
tri; xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó.
Đại biểu Quốc hội
phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của
Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội có
quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao
và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Người bị chất vấn
phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp; trong trường hợp cần điều tra thì
Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc
tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản.
Đại biểu Quốc hội có
quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ
trang trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm. Người phụ trách của
các cơ quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại
biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định.
Không có sự đồng ý
của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội.
Nếu vì phạm tội quả
tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo
cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét và quyết định.
Đại biểu Quốc hội
phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu.
Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính
phủ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm cung cấp tài liệu cần
thiết mà đại biểu yêu cầu và tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ
đại biểu.
Nhà nước bảo đảm
kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội.
CHỦ TỊCH NƯỚC
Chủ tịch nước là
người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về
đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch nước do
Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.
Chủ tịch nước chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Nhiệm kỳ của Chủ
tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch
nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Chủ tịch nước
mới.
Chủ tịch nước có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Công bố Hiến
pháp, luật, pháp lệnh;
2- Thống lĩnh các
lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an
ninh;
3- Đề nghị Quốc hội
bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án
Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
4- Căn cứ vào nghị
quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ;
5- Căn cứ vào nghị
quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định
tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá;
6- Căn cứ vào nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên
cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
7- Đề nghị Uỷ ban
thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội về các vấn đề quy định tại điểm 8 và điểm 9, Điều 91 trong thời hạn
mười ngày kể từ ngày pháp lệnh hoặc nghị quyết được thông qua; nếu pháp lệnh,
nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ
tịch nước vẫn không nhất trí, thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại
kỳ họp gần nhất;
8- Bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện
trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
9- Quyết định phong
hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp
ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quyết định tặng thưởng huân
chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước;
10- Cử, triệu hồi
đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền
của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác;
quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình
Quốc hội quyết định;
11- Quyết định cho
nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt
Nam;
12- Quyết định đặc
xá.
Hội đồng quốc phòng
và an ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, các ủy viên.
Chủ tịch nước đề
nghị danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh trình Quốc hội phê
chuẩn. Thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh không nhất thiết là đại biểu
Quốc hội.
Hội đồng quốc phòng
và an ninh động viên mọi lực lượng và khả năng của nước nhà để bảo vệ Tổ
quốc.
Trong trường hợp có
chiến tranh, Quốc hội có thể giao cho Hội đồng quốc phòng và an ninh những
nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt.
Hội đồng quốc phòng
và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số.
Chủ tịch nước có
quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Khi xét thấy cần
thiết, Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ.
Chủ tịch nước ban
hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Phó Chủ tịch nước do
Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.
Phó Chủ tịch nước
giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch uỷ nhiệm thay Chủ tịch làm
một số nhiệm vụ.
Khi Chủ tịch nước
không làm việc được trong một thời gian dài, thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch.
Trong trường hợp
khuyết Chủ tịch nước, thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội
bầu Chủ tịch nước mới.
CHÍNH PHỦ
Chính phủ là cơ quan
chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất
quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà
nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp
và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của
nhân dân.
Chính phủ chịu trách
nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Chủ tịch nước.
Chính phủ gồm có Thủ
tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ
tướng, các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc
hội.
Thủ tướng Chính phủ
chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Phó Thủ tướng giúp
Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng
mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ tướng ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác
của Chính phủ.
Chủ tịch Uỷ ban
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt
Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được mời tham dự các phiên họp
của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan.
Chính phủ có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo công tác
của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân
dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy hành chính Nhà
nước từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện
các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân
thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp
và sử dụng đội ngũ viên chức Nhà nước;
2- Bảo đảm việc thi
hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên
truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân;
3- Trình dự án luật,
pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
4- Thống nhất quản
lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tài
chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc
sở hữu toàn dân; phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ,
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước;
5- Thi hành những
biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện
cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi
ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường;
6- Củng cố và tăng
cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và
trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành
lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết
khác để bảo vệ đất nước;
7- Tổ chức và lãnh
đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra
Nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước; công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
8- Thống nhất quản
lý công tác đối ngoại của Nhà nước; ký kết, tham gia, phê duyệt điều ước quốc
tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
9- Thực hiện chính
sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo;
10- Quyết định việc
điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương;
11- Phối hợp với Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả.
Nhiệm kỳ của Chính phủ
theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm
nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới.
Thủ tướng Chính phủ
có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo công tác
của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; chủ toạ các
phiên họp của Chính phủ;
2- Đề nghị Quốc hội
thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ; trình Quốc hội và trong
thời gian Quốc hội không họp, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị
về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành
viên khác của Chính phủ;
3- Bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu
cử; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
4- Đình chỉ việc thi
hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, các thành
viên khác của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp,
luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên;
5- Đình chỉ việc thi
hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp
trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ;
6- Thực hiện chế độ
báo cáo trước nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn
đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết.
Căn cứ vào Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, Chính phủ ra nghị quyết,
nghị định, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi
hành các văn bản đó.
Những vấn đề quan
trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo luận tập thể và quyết
định theo đa số.
Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về lĩnh vực,
ngành mình phụ trách trong phạm vi cả nước, bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào Hiến
pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, các văn bản của Chính
phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, Thủ
trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ ra quyết định, chỉ thị, thông tư và kiểm
tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và
cơ sở.
Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ,
trước Quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách.
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ
ỦY BAN NHÂN DÂN
Các đơn vị hành
chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành
huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia
thành quận, huyện và thị xã;
Huyện chia thành xã,
thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia
thành phường.
Việc thành lập Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở các đơn vị hành chính do luật định.
Hội đồng nhân dân là
cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên.
Căn cứ vào Hiến
pháp, luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân ra nghị
quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở
địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc
phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của
nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối
với cả nước.
Đại biểu Hội đồng
nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương;
phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế
độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân
dân, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Đại biểu Hội đồng
nhân dân có nhiệm vụ vận động nhân dân thực hiện pháp luật, chính sách của
Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên nhân dân tham gia quản
lý Nhà nước.
Đại biểu Hội đồng
nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và các thành
viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân và thủ trưởng các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân. Người bị
chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân trong thời hạn do luật định.
Đại biểu Hội đồng
nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan Nhà nước ở địa phương. Người phụ
trách cơ quan này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị
của đại biểu.
Uỷ ban nhân dân do
Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan
hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật,
các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân
dân.
Uỷ ban nhân dân
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, ra quyết định, chỉ
thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó.
Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân lãnh đạo, điều hành hoạt động của Uỷ ban nhân dân.
Khi quyết định những
vấn đề quan trọng của địa phương, Uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập thể và
quyết định theo đa số.
Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái của
các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân và các văn bản sai trái của Uỷ ban nhân dân
cấp dưới; đình chỉ thi hành nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp
dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ những nghị quyết
đó.
Chủ tịch Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương
được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự hội nghị Uỷ
ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan.
Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương
cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị
của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân
dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh ở địa phương.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Toà án nhân dân và
Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi
chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
Toà án nhân dân tối
cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do
luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong tình hình đặc
biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt.
ở cơ sở, thành lập
các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật
và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật.
Nhiệm kỳ của Chánh
án Toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Chế độ bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Thẩm phán, chế độ bầu cử và nhiệm kỳ
của Hội thẩm nhân dân ở Toà án nhân dân các cấp do luật định.
Việc xét xử của Toà
án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân
tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với
Thẩm phán.
Khi xét xử, Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Toà án nhân dân xét
xử công khai, trừ trường hợp do luật định.
Toà án nhân dân xét
xử tập thể và quyết định theo đa số.
Quyền bào chữa của
bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa
cho mình.
Tổ chức luật sư được
thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Toà án nhân dân bảo
đảm cho công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc
quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà án.
Toà án nhân dân tối
cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Toà án nhân dân tối
cao giám đốc việc xét xử của các Toà án nhân dân địa phương và các Toà án
quân sự.
Toà án nhân dân tối
cao giám đốc việc xét xử của Toà án đặc biệt và các toà án khác, trừ trường
hợp Quốc hội quy định khác khi thành lập Toà án đó.
Chánh án Toà án nhân
dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời
gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban
thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Chánh án Toà án nhân
dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân.
Các bản án và quyết
định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi
công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp
hành.
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN
Viện kiểm sát nhân
dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các cơ quan ngang
Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành
quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất.
Các Viện kiểm sát
nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp
luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm do luật định.
Viện kiểm sát nhân
dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu
sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp
chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Việc thành lập Uỷ
ban kiểm sát, những vấn đề Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết
định, những vấn đề quan trọng mà Uỷ ban kiểm sát phải thảo luận và quyết định
theo đa số do luật định.
Nhiệm kỳ của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Viện trưởng, các Phó
Viện trưởng và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm
sát quân sự các quân khu và khu vực do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc
hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Viện trưởng các Viện
kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân
về tình hình thi hành pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại biểu
Hội đồng nhân dân.
QUỐC KỲ, QUỐC HUY, QUỐC
CA, THỦ ĐÔ, NGÀY QUỐC KHÁNH
Quốc kỳ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba
chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.
Quốc huy nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm
cánh, chung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ: Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc ca nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài "Tiến quân
ca".
Thủ đô nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội.
Ngày tuyên ngôn độc
lập 2 tháng 9 năm 1945 là ngày Quốc khánh.
HIỆU LỰC CỦA HIẾN
PHÁP VÀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Hiến pháp nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp
lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp
luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.
Chỉ Quốc hội mới có
quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là hai phần
ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
----------------------------------
Bản Hiến pháp này đã
được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ
11 nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 15 tháng 4 năm 1992, hồi 11 giờ 45
phút./.
|
||||||||
|
Comments
Post a Comment