LUẬT HAMMURABI
Thần Anu[1] vĩ đại, vua của
Anunác [2] cùng với thần Enlin [3] chúa tể của trời dất quyết định vận mệnh của
đất nước, ban cho Mácđúc[4], con trưởng của thần Ea [5] quyền thống trị[6] cả
nhân loại, tỏ rõ quyền lực đó trước các thiên thần, và lấy cái tên trang nghiêm
của mình đặt tên cho Babilon, làm cho nó trở thành kẻ lớn mạnh nhất trong muôn
phương, và trong đó xây dựng một vương quốc bất hủ cùng lâu bền với trái đất.
Trong lúc đó, vì hạnh phúc
của loài người, thần Anu và thần Enlin đã ra lệnh cho trẫm, Hammurabi, một vị
vua quang minh và ngoan đạo, phát huy chính nghĩa ở đời, diệt trừ những kẻ gian
ác không tuân theo pháp luật, làm cho kẻ mạnh không hà hiếp người yếu, làm cho
trẫm giống như thần Samát,[7] soi đến dân đen, tỏ ánh sáng khắp mặt đất.
Trẫm, Hammurabi, kẻ chăn dắt
dân do thần Enlin chỉ định, kẻ làm nên sự phồn vinh và giàu có, làm nên tất cả
cho thành phố Nippua[8], làm cho trời đất điều hoà, và trở thành kẻ bảo hộ của
đền Êcua[9] quang vinh.
Trẫm, vị vua bách thắng,
làm cho thành phố Eriđu[10] phục hưng, và làm cho lễ nghi ở đền Eapzu[11]có quy
cũ.
Trẫm, kẻ bảo hộ của bốn
phương, làm rạng rỡ tên tuổi của Babilon, làm cho vị chúa của trẫm là thần
Mácđúc thành thực vui lòng và hàng ngày đến làm lễ ở đền Exjin.
Trẫm, cái vũ trụ quý giá của
bậc vương giả, do thần Xin1 lập nên, đã làm cho thành Urucs giàu có, và là kẻ cầu
nguyện có lòng thành, làm cho đền Ekitsigan đầy của cải.
Trẫm, vị vua hợp pháp đầy sức
mạnh trung thành với thần Samát, đã từng củng cố nền móng của thành Xippa, làm
cho mộ của Aii2 lại xanh đỏ, lại còn xây dựng đền Ebara làm cho đền này giống
như cung điện nhà trời.
Trẫm, một chiến sĩ tha tội
cho thành Lacxa3 đã xây dựng đền Ebapba cho kẻ đồng minh của mình là Ista.
Trẫm, vòm trời của cả đất
nước, tập hợp nhân dân li tán của thành Ixin, làm cho đền ganma càng thêm giàu
có.
Trẫm, kẻ thống trị của các
vua, anh em với thần Sabaha4 đã bảo vệ nhà của thành Kít, tu sửa và trang sức đền
Emêtễua làm cho đền này trở nên huy hoàng tráng lệ, còn chỉnh lí lại những lễ lớn
của thần Ista, quan tâm đến đền Huaxacalam, một đồn luỹ ngăn chặn kẻ địch.
Trẫm, kẻ làm nguyện vọng của
mình đựơc bạn mình là thần Ira5 chấp nhận, đã làm cho thành Cút được vững mạnh
và làm cho đền Mexlam được tăng cường.
Trẫm, con bò mộng bằng vàng
dũng mãnh xông vào kẻ địch, kẻ đựơc thần Tutu6 yêu mến, đã làm cho Boxippa7 vui
mừng kích động, và còn luôn luôn quan tâm đến đền Edida.
Trẫm, vị thần của các vua,
thông minh và trí tuệ, đã mở rộng ruộng đất trồng trọt cho thành Binbát, còn
làm cho vựa lúa của thần Urat8 đầy ăm ắp.
Khi thần Mácđúc ra lệnh cho
trẫm thống trị muôn dân và làm cho nước nhà được hưởng hạnh phúc, trẫm làm cho
công bằng và chính nghĩa toả khắp đất nước và mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân từ
nay về sau:
Điều 1: Nếu dân tự do tuyên
thệ tố cáo dân tự do phạm tội giết người mà không có bằng chứng thì người tố
cáo sẽ bị xử tử.
Điều 3: Dân tự do đưa ra tội
trạng trong các vụ kiện tụng mà không kèm theo bằng chứng, nếu bản án có liên
quan đến vấn đề tính mạng, thì sẽ bị xử tử.
Điều 4: Nếu những bằng chứng
đưa ra thuộc về những vụ kiện về thóc hoặc bạc thì phải xử bằng những hình phạt
mà bản án đó đáng phải chịu.
Điều 6: Nếu dân tự do ăn trộm
tài sản của thần hoặc của cung đình sẽ bị xử tử, kẻ nhận tang vật của người ăn
trộm cũng bị tử hình.
Điều 7: Nếu dân tự do mua của
con hoặc nô lệ của dân tự do hoặc trữ giúp học cho họ bạc hoặc vàng hoặc nô lệ,
hoặc nữ nô lệ, hoặc bò, hoặc cừu, hoặc lừa, hoặc bất cứ vật gì, mà không có người
làm chứng hoặc giấy chứng nhận thì tức là ăn trộm, sẽ bị xử tử.
Điều 8: Nếu dân tự do ăn trọm
bò hoặc cừu, hoặc lừa, hoặc thuyền, nếu các thứ đó là vật sở hữu của thần hoặc
là vật sở hữu của cung đình thì người đó sẽ bị phạt tiền gấp 30 lần, nếu các thứ
đó là vật sở hữu của muxkênu thì phải phạt tiền gấp 10 lần. Nếu người ăn trộm
không có vật gì để bồi thường thì sẽ bị xử tử.
Điều 11: Nếu người bị mất của
không đưa ra được người làm chứng biết vật mình mất, thì người này là kẻ nói
láo phạm tội vu cáo, sẽ bị xử tử.
Điều 15: Nếu dân tự do đem
nam nô lệ hoặc nữ nô lệ của cung đình hoặc của muxkênu ra khỏi thành, sẽ bị xử
tử.
Điều 16: Nếu dân tự do che
giấu nô lệ của cung đình hoặc của muxkênu chạy đến nhà mình, mà không theo mệnh
lệnh của người truyền lệnh đem trả lại thì chủ nhà của nhà này sẽ bị xử tử.
Điều 21: Nếu dân tự do xâm
phạm chỗ ở của người khác thì bị xử tử và chôn ngay ở chỗ đã xâm phạm.
Điều 22: Nếu dân tự do phạm
tội ăn cướp mà bị bắtg thì bị xử tử.
Điều 25: Nếu nhà nào bị
cháy mà người tự do đến chữa cháy dòm ngó tài sản và lấy bất cứ một vật gì, thì
người ấy bị ném vào lửa đỏ.
Điều 26: Nếu rêdum hoặc
bairum1 đi làm nhiệm vụ của vua giao cho mà bị bắt làm tù binh, sau đó ruộng vườn
của người này giao cho kẻ làm thay nghĩa vụ quân dịch, nếu người này lại được
trở về quê hương của mình thì phải trả ruộng vườn cho người đó và người này lại
tự đảm nhiệm nghĩa vụ quân dịch.
Điều 29: Nếu con người đó
còn nhỏ tuổi, không thể làm nghĩa vụ thay cha, thì phải gioa 1/3 ruộng vườn cho
người mẹ, để người mẹ nuôi con.
Điều 30: Nếu rêdum và
bairum vì nhiệm vụ nặng nề, bỏ ruộng vườn nhà cửa về, sau kẻ khác lấy làm ruộng
vườn nhà cửa đó và làm nghĩa vụ thay người này đã quá 3 năm, nếu người này trở
về và đòi lại ruộng vườn nhà cửa thì không đựơc trả. Người lấy ruộng vườn, nhà
cửa và làm nghĩa vụ thay người này phải đảm nhiệm nghĩa vụ quân dịch.
Điều 36: Ruộng vườn nhà cửa
của rêdum, bairum hoặc của người nộp cống1 không đựơc bán.
Điều 38: Rêdum, bairum hoặc
người nộp cống không được đưa ruộng vườn nhà cửa có liên quan đến nghĩa vụ mà
mình phải đảm nhiệm tặng lại cho vợ và con gái của mình, cũng không được dùng
các thứ đó gán nợ.
Điều 39: Nếu ruộng vườn nhà
cửa là do những người này mua về thì những người này được đem tặng cho vợ và
con gái và cũng được dùng để gán nợ.
Điều 41: Dân tự do dùng tài
sản của mình đổi lấy ruộng vườn nhà cửa của rêdum và bairum hoặc người nộp cống
vẫn có thể trở về ruộng vườn nàh cửa của mình và có thể lấy lại số tiền phụ
thêm của mình.
Điều 42: Dân tự do thuê ruộng
để cày, nếu ruộng không có thóc thì người này bị coi là chưa hết sức chăm bón,
phải lấy người bên cạnh làm tiêu chuẩn để nộp thóc cho chủ ruộng.
Điều 43: Nếu không cày cấy
mà để ruộng bỏ hoang, thì người này phải căn cứ theo người bên cạnh để nộp thóc
cho chủ ruộng và còn phải cày bừa ruộng đã bỏ hoang cho bằng phẳng rồi trả lại
cho ruộng.
Điều 44: Dân tự do thuê đất
của con gái chưa lấy chồng trong vòng 3 năm để khai khẩn trồng trọt nhưng lười
biếng không cày cấy, thì đến năm thứ tư phải cày úp, để ải bừa phẳng đất rồi trả
lại cho chủ ruộng và cần phải nộp cho chủ ruộng mỗi bua2 là 10 guru3 thóc.
Điều 45: Dân tự do đem ruộng
của mình phát canh cho nông dân, và đã thu tiền thuê ruộng mà về sau thần Adát
làm ngập ruộng hoặc lụt phá huỷ mất hoa màu, thì người nông dân thuê ruộng phải
chịu sự thiệt hại đó.
Điều 46: Nếu người này
không thu tiền thuế ruộng, mà sẽ căn cứ theo thu hoạch để thu tô 1/2 hay 1/3
thì thu hoạch của ruộng đất sẽ do nông dân và chủ ruộng căn cứ theo tỉ lệ đã định
để chia nhau.
Điều 47: Nếu trong năm đầu
nông dân chưa thu được hoa lợi mà nói: “Tôi sẽ vì mình mà cày ruộng” thì chủ ruộng
không được không chấp nhận điều đó, thửa ruộng đó phải để cho nông dân này cày,
cấy đến khi thu hoạch sẽ căn cứ theo giấy giao kèo đo thu tô.
Điều 48: Nếu dân tự do mắc
nợ có lợi tức, mà thần Adát làm ngập ruộng của người này, hoặc nước lụt phá hoại
hoa màu, hoặc vì hạn hán hoa màu không mọc được, thì người này năm đó không phải
ra thóc cho chủ nợ và xoá bỏ giao kèo, lợi tức năm đó cũng không phải trả.
Điều 49: Nếu dân tự do vay
bạc của tamca và giao cho tamca ruộng có thể trồng lúa hoặc ruộng có thể trồng
vừng và nói với tamca rằng: “ Ruộng này do ông trồng lúa hoặc vừng trên ruộng,
do ông thu hoạch”. Nếu nông dân1 trồng lúa hoặc vừng trên ruộng thì khi thu hoạch
thóc hoặc vừng trên ruọng là thuộc về chủ ruộng, nhưng phải nộp thóc cho tamca để
bù vào số bạc đã vay và lợi tức, những tổn phí của tamca đã trả khi cày ruộng.
Điều 50: Nếu đám ruộng mà
người này đem lại vật bảo đảm để vay nợ đã trồng lúa hoặc trồng vừng, thì số
thóc hoặc vừng thu hoạch được là thuộc về chủ ruộng và phải dùng bạc để trả vốn
và lãi cho tamca.
Điều 51: Nếu người này
không có bạc để trả thì có thể dùng thóc hoặc vừng căn cứ theo giá quy định của
nhà vua nộp cho tamca để trả số bạc đã vay và lợi tức.
Điều 52: Nếu nông dân của
tamca không trồng lúa hoặc vừng trên đám ruộng đó thì giấy giao kèo cũng không
được thay đổi.
Điều 53: Nếu dân tự do lười
biếng không chịu củng cố đê đập bên ruộng của mình, do đó đê đập bị vỡ, nước ngập
ruộng đất, cày cấy ( của công xã), thì người dân ự do có đê đập bị vỡ đó phải bồi
thường số hoa màu đó đã bị thiệt hại.
Điều 54: Nếu người này
không thể bồi thường được bản thân người này cùng với tài sản phải đem bán lậy
bạc để chia cho những người có ruộng bị nước phá hoại mất hoa màu.
Điều 55: Nếu dân tự do mở cống
của mình, không cẩn thận làm ngập ruộng của người bên cạnh, thì người này phải
căn cứ theo khu vực bên cạnh để đền thóc.
Điều 56: Nếu dân tự do tháo
nước làm nước ngập ruộng đã gieo trồng của người bên cạnh, thì người này phải đền
thóc cứ mỗi bua là 10 gru.
Điều 57: Nếu người chăn súc
vật chưa thương lượng với chủ ruộng về việc cho cừu ăn cỏ, chưa báo cho chủ ruộng
mà chăn cừu “ở” ruộng thì chủ ruộng được gặt đám ruộng của mình, ngoài ra người
chăn súc vật không báo với chủ ruộng mà chăn cừu ăn ở ruộng ấy phải đền thóc
cho chủ ruộng cứ mỗi bua là 20 guru.
Điều 58: Sau khi rời khỏi mục
trường mà cả đàn súc vật bị bắt giữ lại trong cửa thành, nếu người chăn súc vật
vẫn thả cừu ở ruộng và cho cừu ăn ở ruộng, thì người chăn cừu phải trông coi
đám ruộng mình đã cho cừu ăn, đến khi thu hoạch phải đền cho chủ ruộng cứ mỗi
bua là 60 guru thóc.
Điều 59: Nếu dân tự do chặt
cây cối trong vườn của dân tự do mà không báo cho chủ vườn biết thì phải đền
1/2 minabạc.
Điều 60: Nếu dân tự do đem
ruộng đất giao cho người trồng vườn để làm vườn trồng cây ăn quả mà người trồng
vườn trồng thành vườn cây ăn quả trong vòng 4 năm, thì đến năm thứ 5, chủ vườn
và người trồng vườn chia đều nhau2 chủ vườn được chọn trước phần của mình.
Điều 63: Nếu đó là đất
hoang, thì người này phải sửa sang lại đất rồi trả lại cho chủ ruộng và phải đền
thóc cho chủ ruộng cứ mỗi năm mỗi bua là 10 guru.
Điều 64: Nếu dân tự do đem
giao cho người trồng vườn trồng cây cha là thì người trồng vườn phải nộp 2/3 số
thu hoạch trong vườn mà mình quản lí cho chủ vườn, còn mình được 1/3.
Điều 66: Nếu dân tự do vay
tiền của tamca, tamca đến đòi nợ, mà người này không có gì để trả do đó đem vườn
quả mình đã trồng cho tamca và nói với tamca rằng “ Xin ông lấy số chà là ở trong
vườn chỉ do chủ vườn thu hoạch, và theo quy định trong giấy giao kèo, trả bạc vốn
và lãi cho tamca, số chà là trong vườn còn lại vẫn thuộc quyền sở hữu của chủ
vườn.
Điều 89: Nếu tamca cho vay
thóc hoặc bạc lấy lãi, thì mỗi guru ( có thể thấy lại 100 ca1 thóc. Nếu cho vay
bạc trắng thì mỗi xikhơ2 bạc có thể lấy lại 1/6 và 6 sêun2.
Điều 90: Nếu dân tự do mắc
nợ có lãi, nhưng không có bạc trắng để trả nợ mà chỉ có thóc, thì theo quy định
của vua, tamca chỉ được tính mỗi guru là 100 ca, và lấy thóc để trả lãi.
Điều 91: Nếu tamca không
tuân theo quy định là thóc thì mỗi guru lấy lại 100 ca, bạc trắng thì mỗi xikhơ
lấy lại 1/6 xikhơ và 6 sêun mà tăng thêm lợi tức thì người này bị mất vật đã
cho vay.
Điều 101: Nếu không thu được
lợi ở nơi đến thì samenlum3 phải trả lại gấp bội cho tamca số bạc đã nhận.
Điều 102: Nếu tamca cho
samelum vay bạc mà không lấy lãi mà samenlum bị thiệt hại ở nơi đến (buôn bán),
thì người này phải trả lại toàn bộ số vốn cho tamca.
Điều 103: Nếu giữa đường bị
giặc cướp mất tất cả các thứ đang chuyển đi thì samenlum phải thề trước thần,
và được miễn không phải bồi thường.
Điều 104: Nếu tamca giao
cho samenlum bán thóc, lông cừu, dầu, hoặc bất cứ thứ gì khác, thì samenlum phải
kết toán số bạc đã trao lại cho tamca. Samenlum lấy chứng từ có đóng dấu về số
bạc mà mình giao cho tamca.
Điều 105: Nếu samenlum quên
lấy chứng từ có đóng dấu về số bạc mình đã nộp cho tamca, thì số bạc không có
chứng từ có đóng dấu đó không được tính nợ.
Điều 106: Nếu sau khi
samenlum đã nhận bạc ở tamca rồi mà trước mặt tamca kiên quyết không thừa nhận,
thì tamca phải chứng thực việc samenlum đã nhận bạc trước thần và người làm chứng
còn samenlum thì phải trả lại gấp 3 số bạc mà mình đã nhận của tamca.
Điều 107: Nếu tamca gửi cho
samenlum vật gì và samenlum đã trả lại cho tamca tất cả những thứ mà tamca giao
cho mình nhưng tamca không thừa nhận là đã lấy lại những vật mà samelum trả lại,
thì người samelum này phải vạch mặt tamca trước thần, và người làm chứng, còn
tamca thì vì việc đôi có với samenlum mà phải trả lại gấp 6 lần tất cả các thứ
mà mình đã láy lại.
Điều 108: Nếu mụ hàng rươu
không chịu lấy thóc khi bán rượi xikêra1 mà lại dùng cân giả để lấy bạc và số
lượng rượu xikêra quy định lại thấp hơn số lượng thóc quy định thì mụ hàng rượu
đó bị tố giác và bị ném vào lửa.
Điều 109: Nếu tụ tập ở nhà
mụ hàng rượu, mà mụ hàng rượu không báo để bắt những người tù đó giải đến cung
đình thì mụ hàng rượu đó bị xử tử.
Điều 110: Nếu vợ thần hoặc
chị của thần 2 không ở trong nhà tù, mà lại mở quán rượu hoặc vào quán rượu
công thì người phụ nữ tự do đó sẽ bị thiêu chết.
Điều 111: Nếu mua hàng rượu
bán chịu 60 ca rượu, đến mùa thu hoạch sẽ được lấy 60 ca thóc.
Điều 112: Nếu dân tự do
trên đườn đi nhờ một dân tự do khác chuyên chở giúp bạc vàng đá quý hoặc những
của cải (khác) của mình, mà người dân tự do này không đưa những vật được gửi đến
nơi đến chốn, mà chiếm hữu các thứ đó, thì người gửi của phải tố cáo tội không
giao lại những vật đã gửi của người kia. Người dân tự do đó phải bồi thường gấp
5 lần toàn bộ số của cải đã giao cho mình.
Điều 113: Nếu người dân tự
do cho một người dân tự do khác vay thóc hoặc bạc, không báo cho người chủ có
thóc tự tiện đến lấy thóc ở trong kho hoặc trên sân thóc, thì người dân tự do
đó sẽ bị tố cáo về việc không báo cho chủ có thóc mà tự tiện lấy thóc ở trong
kho hoặc trên sân. Người đó phải trả lại toàn bộ số thóc và mất toàn bộ (số nợ).
Điều 114: Nếu dân tự do
không phải là chủ nợ về thóc hoặc bạc của mộg dân tự do khác mà giữ con tin của
người kia thì người này phải bồi thường cứ mỗi người là con tin là 1/3 mina bạc.
Điều 115: Nếu dân tự do là
chủ nợ của một người dân tự do khác, và giữ con tin của người này, mà người làm
con tin vì số mệnh mà chết ở nhà người giữ mình làm con tin, thì việc đó không
thể làm căn cứ để tố cáo.
Điều 116: Nếu người làm con
tin bị đánh đập hoặc ngược đãi mà chết ở nhà người giữ mình làm con tin, thì
người chủ của con tin đó được tố cáo tội của tamca. Nếu (người làm con tin) là
con trai của dân tự do, thì phải giết con trai của người đó, nếu là nô lệ của
dân tự do thì người đó phải đền 1/3 mina bạc, và bị mất toàn bộ (số nợ).
Điều 117: Nếu dăn tự do vì
mắc nợ phải bán vợ, con trai hoặc con gái, hoặc làm nô lệ vì nợ thì họ phải phục
dịch ở nhà người mua hoặc người chủ nợ 3 năm, đến năm thứ 4 họ được trả lại tự
do.
Điều 118: Nếu người này gán
nam nô lệ hoặc nữ nô lệ vì nợ ,thì tam ca có thể tiếp tục chuyển nhượng, có thể
bản không được kiện cáo đòi trả nợ.
Điều 119: Nếu dân tự do mắc
nợ, đem bán nữ nô lệ đã từng đẻ con cái, thì người chủ của người nữ nô lệ có thể
trả bạc cho tamca để chuộc lại những người nô lệ của mình.
Điều 121: Dân tự do gửi
thóc ở nhà dân tự do, thì mỗi năm cứ mỗi guru thóc phải nộp 5 ca thuế kho.
Điều 122: Dân tự do đem bạc,
vàng hoặc bất cứ thứ gì nhờ một người dân tự do khác cất giữ thì phải có người
làm chứng, chứng nhận những vật mà người ấy gửi và làm giấy giao kèo, xong thì
có thể nhờ cất giữ.
Điều 127: Nếu dân tự do xỉ
vả chị của thần hoặc vợ của dân tự do mà không chứng minh được tội lõi thì người
dặnt này phải đưa đến quan toà và cạo tóc mai của y.
Điều 128: Nếu dân tự do cưới
vợ mà không làm giấy tờ thì người phụ nữ đó không phải là vợ của y.
Điều 129: Nếu vợ của dân tự
do ngủ với người đàn ông khác mà bị bắt, thì phải trói cả hai người này lại và
ném xuống sông. Nếu người chủ của người vợ cho vợ mình được sống thì vua cũng bảo
toàn tính mạng cho người nô lệ1 của mình.
Điều 130: Nếu dân tự do hiếp
dâm vợ của dân tự do (còn ở nhà cha mẹ chưa hề tiếp xúc với chồng) mà bị bắt,
thì người tự do đó bị xử tử, người phụ nữ này được miễn truy tội.
Điều 133: Nếu dân tự do bị
bắt làm tù binh, mà trong người y có các tư liệu sinh sống, thì vợ y phải ……….
và giữ lấy tài sản của mình, không được đến nhà người khác. Nếu người đàn bà
này không giữ lấy lại tài sản của mình mà đến ở nhà người khác, thì sẽ bị tố
cáo, và bị ném xuống nước.
Điều 134: Nếu dân tự do bị
bắt làm tù binh, mà nhà y không có tư liệu sinh sống, do đó vợ y đến ở nhà người
khác và có sinh con cái, mà sau chồng thị trở về tìm lại vợ của mình, thì người
đnà bà này phải trở về nơi chồng trước, con cáithì thuộc về cha nó.
Điều 137: Nếu người dân tự
do muốn bỏ vợ người vợ lẽ đã từng đẻ con trai cho y, hoặc người đàn bà đã không
sinh đẻ đã làm cho y có con trai thì phải trả lại của hồi môn của người đàn bà
đó và phải cho thị một phần ruộng vườn và tài sản, để thị có thể nuôi nấng con
cái. Đến khi thị đã nuôi nấng con cái thành người thi phải chia cho thị một phần
tài sản bằng phần của một kẻ kế thừa trong toàn bộ tài sản chia cho con cái, và
sau đó thị được đi lấy người chồng mà mình yêu.
Điều 138: Nếu dân tự do muốn
bỏ vợ chưa sinh con cái thì phải cho thị một số bạc tương đương với lễ hỏi và
phải trả lại những của hồi môn mà thị mang từ nhà cha mẹ về, sau đó có thể bỏ.
Điều 141: Nếu vợ dân tự do
sống ở nhà dân tự do mà để lòng ở nơi khác, ăn tiêu lãng phí, làm khuynh gia
tài sản, chồng chịu tiếng xấu thì thị bị tố cáo. Nếu chồng thị quyết định bỏ thị
thì có thể bỏ. Khi thị đi nơi khác, chồng lại phải cho thị li dị phí. Nếu chồng
thị quyết định không bỏ thị, thì có thể lấy một người đàn bà khác, còn người
đàn bà này phải ở lại nhà chồng làm nữ nô lệ.
Điều 142: Nếu vợ ghét chồng
và nói với chồng rằng: “ Anh không được chiếm hữu tôi” thì phải tìm người hàng
xóm của họ để điều tra việc này. Nếu như thị trinh tiết không có tội lỗi mà chồng
thị thường đi ra ngoài và còn làm tội là tình thị, thì người đàn bà đó không có
tội, thị được lấy của hồi môn của mình trở về nhà cha mẹ.
Điều 143: Nếu thị khong
trinh tiết thường đi nơi khác làm cho gia đình phá sản, chồng bị tiếng xấu thì
người đàn bà này phải ném xuống sông.
Điều 144: Nếu dân tự do lấy
một người đàn bà không sinh đẻ,người đàn bà không sinh đẻ này cho chồng một người
nô lệ do đó sinh được con cái, mà người dân tự do này còn muốn lấy vợ bé thì
không cho phép người dân tự do đó được lấy vợ bé.
Điều 148: Nếu dân tự do lấy
vợ, ngườivợ bị hủi, mà người này muốn lấy một người khác, thì y có thể lấy người
khác, nhưng không được bỏ người vợ bị bệnh hủi, người vợ đó được ở trong nhà y,
y phải nuôi nấng người vợ đó suốt đời.
Điều 149: Nếu người đàn bà
đó không muốn sống ở nhà chồng mình, thì y phải trả lại của hồi môn mà thị mang
từ nhà cha mẹ về cho thị, thị có thể bỏ đi.
Điều 150: Nếu dân tự do tặng
cho vợ mình ruộng vườn nhà cửa hoặc các tài sản khác và có cho thị văn khế có
đóng dấu thì sau khi chồng chết, con cái của thị không được đi kiện thị hoặc
xin thị bất cứ điều gì. Người mẹ được đem các tài sản cho đứa con mình thương
nhất sau khi mình chết, duy chỉ không được đem những tài sản đó tặng anh em
mình.
Điều 153: Nếu vợ vì người
đàn ông khác mà giết chồng thị bị xử tội ngồi bàn chông
Điều 155: Nếu dân tự do cưới
vợ cho con trai và con trai mình đã quan hệ với người ấy, sau đó y lại gian dâm
với người thị mà bị phát giác, thì phải trói người dân tự do đó ném xuống nước.
Điều 162: Nếu dân tự do lấy
vợ, người vợ đã sinh con cái cho y, mà về sau người đàn bà đó chết, thì bố thí
không được đòi lại của hồi môn chỉ thuộc về con cái.
Điều 163: Nếu dân tự do lấy
vợ, người vợ chưa sinh con cái cho y mà về sau người đàn bà này chết, nếu bố vợ
lại lễ hỏi của người tự do này thì người chồng của người đàn bà đó không được
đòi của hồi môn của người đàn bà đó, của hồi môn của thị chỉ thuộc về gia đình
bố thị.
Điều 164: Nếu bố vợ không
trả lại lễ hỏi, thì y được khấu trừ lễ hỏi trong số của hồi môn của người đàn
bà này, và đem của hồi môn trả lại cho gia đình vợ.
Điều 165: Nếu dân tự do tặng
ruộng vườn nhà cửa cho kẻ kế thừa mà mình yêu thích và cho người này giấy tờ có
đóng dấu hẳn hoi thì sau khi người cha chết, khi anh em chia tài sản, người con
trai này đựơc nhận những tặng phẩm của người cha, ngoài ra các anh em vẫn chia
đều tài sản của cha.
Điều 166: Nếu dân tự do đã
lấy vợ cho các con trai mà chưa cưới vợ cho con trai út thì sau khi người cha
chết, khi anh em chia tài sản, thì trong gia sản của người cha, ngoài phần mà
người út chưa lấy vợ chồng đựơc hưởng, còn cho một số bạc về tiền lễ hỏi để người
này lấy vợ.
Điều 167: Nếu dân tự do lấy
vợ đã sinh con cái cho y, mà về sau người đàn bà này chết, sau khi vợ chết y lại
lây vợ, người vợ này lại sinh con cái, thì sau khi người cha chết, các con
không được căn cứ theo mẹ để chia tài sản. Những người con này được lấy của hồi
môn của mẹ mình và chia đều tài sản của người cha.
Điều 169: Nếu người con phạm
tội lớn đủ để bị tước đoạt quyền kế thừa của mình, thì quan toà có thể rộng lượng
tha thứ cho người con này phạm tội lần đầu, nếu người con này lại phạm tội lớn
lần nữa, thì người cha được tước đoạt quyền kế thừa của người con này.
Điều 170: Nếu người vợ
chính thức của dân tự do sinh con cái cho y, nữ nô lệ của y cũng sinh con cái
cho y, và khi người cha đang sống nói những đứa con do nữ nô lệ sinh ra là:
“con của tôi” coi những đưa con đó ngang hàng với những đưa con của người vợ
chính thức thì sau khi người cha chết, những đứa con của người vợ chính thức và
những đứa con của người nữ nô lệ phải cùng nhau chia đều gia tài của cha. Khi
chia tài sản, con của người vợ chính thức đựơc ưu tiên chọn phần của mình.
Điều 172: Nếu người chồng
không cấp cho thị tiền nuôi thân của ngượi vợ goá thì phải trả lại của hồi môn
của thị và một phần trong số tài sản của chồng thị bằng phần của một kẻ kế thừa.
Nếu con cái của thị đối với thị không tốt muốn đuổi thị ra khỏi nhà, thì quan
toà phải điều tra việc đó và xử phạt những đứa con của thị. Người đàn bà này
không nên rời khỏi nhà chồng mình. Nếu người đàn bà này muốn đi, thì thị phải để
lại cho con cái số tiền nuôi thân của người vợ goá mà chồng thị đã cấp cho.
Điều 175: Nếu nô lệ của
cung đình hoặc nô lệ của muxkênu lấy con gái của dân tự do, người con gái này
có sinh con cái thì chủ của người nô lệ không đựơc bắt con cái do người con gái
của dân tự do sinh ra làm nô lệ.
Điều 177: Nếu bà goá có con
còn nhỏ tuổi, nếu muốn vào nhà người khác mà không bảo với quan toà thì không
được đi. Khi thị vào nhà người khác, quan toà phải điều tra tình hình gia đình
người chồng trước kia của thị, và phải gửi tài sản của người chồng trước cảu thị
cho người chồng sau của thị, và phải bắt họ làm giấy. Họ phải giữ gìn nhà cửa của
cải, nuôi nấng những đứa con còn bé, và không được bán đồ dùng trong nhà. Kẻ
nào mua đồ dùng trong nhà của con cái, của bà goá thì phải chịu mất số bạc của
mình, tài sản phải trả lại cho chủ của nó (tức những đứa bé con bà goá).
Điều 179: Người cha đem của
hồi môn cho thị thần, bảo vệ thần hoặc kỹ nữ của thần, và có làm giấy có đóng dấu,
trong giấy viết cho bà ta có ghi rõ bà ta sẽ được dùng của cải còn lại sau khi
chết, tự ý muốn cho ai thì cho phép bà ta được tự do chi phối thì sau khi người
cha chết, bà ta được đem những vật còn lại sau khi bà ta chết tự ý muốn cho ai
thì cho, anh em của bà ta không đựơc vì vậy mà đi kiện bà ta.
Điều 180: Người con gái làm
kĩ nữ của thần hoặc thị thần trong các tư, nếu cha không cho bà ta của hồi môn
thì sau khi người cha chết, bà ta được nhận một phần bằng phần của một kẻ kế thừa
trong gia sản của người cha, và được hưởng những thứ đó, cho đến suốt đời. Của
cải còn lại sau khi bà ta chết thì thuộc về anh em của bà ta.
Điều 182: Con gái làm thị
thần Mácđúc của Babilon, nếu cha không cho của hồi môn, không cho giấy có đóng
dấu thì sau khi người cha chết, bà ta được căn cứ theo tiêu chuẩn của anh em,
nhận 1/3 phần của kẻ kế thừa trong gia sản của người cha, bà ta không có nghĩa
vụ gì, thị của thần Mácđúc được tự ý đem cho những của cải đó bà ta để lại sau
khi chết.
Điều 183: Nếu người cha đem
của hồi môn của con gái do người vợ bé sinh ra, và kén chồng cho thị, làm giấy
có đóng dấu, thì sau khi người cha chết, thị không được nhận phần của mình
trong gia sản của người cha.
Điều 196: Nếu dân tự do làm
hỏng mắt của con của bất cứ người dân tự do nào, thì phải làm hỏng mắt của y.
Điều 197: Nếu y làm gãy
xương của dân tự do, thì phải làm gãy xương của y.
Điều 198: Nếu y làm hỏng mắt
của muxkênu hoặc gãy xương của muxkênu thì phải bồi thường một mina bạc.
Điều 199: Nếu y làm hỏng mắt
nô lệ của dân tự do, hoặc làm gãy xương của nô lệ dặnt do, thì phải bồi thường
1/2 giá mua cảu người nô lệ đó.
Điều 200: Nếu dân tự do
đánh gảy răng của người dân tự do ngang hàng với mình, thì phải đảnh gãy răng của
y.
Điều 201: Nếu dân tự do
đánh gãy răng của muxkênu, thì phải đền 1/3 mina bạc.
Điều 202: Nếu dân tự do tát
vào má người có địa vị tương đối cao, thì phải đánh y 60 roi da bò trong cuộc họp.
Điều 203: Nếu con cảu dân tự
do đánh con của dân tự do ngang hàng với mình thì phải bồi thường 1 mina bạc.
Điều 204: Nếu muxkênu tát
vào má muxkênu, thì phải bồi thưòng 10 xikhơ bạc
Điều 205: Nếu nô lệ của dân
tự do tát vào má của con của dân tự do thì phải cắt một tay của nó.
Điều 212: Nếu người phụ nữ
này chết thì y phải bồi thường 1/2 mina bạc.
Điều 213: Nếu y đánh nữ nô
lệ của dân tự do, đến nỗi làm cho người nữ nô lệ đó bị xẩy thai thì y phải bồi
thường 2 xikhơ bạc.
Điều 214: Nếu người nữ nô lệ
đó chết, thì y phải bồi thường 1/3 mina bạc.
Điều 215: Nếu thầy thuốc
dùng dao đồng thau mổ một trường hợp khó khăn cho dân tự do và chữa cho người
đó lành bệnh, hoặc dùng dao đồng thau cắt lọc mắt (?) cho dân tự do và chữa cho
người này lành mắt, thì người thầy thuốc đó được 1 xikhơ bạc.
Điều 216: Nếu ( người bệnh
là muxkênu, thì người thầy thuốc 5 xikhơ bạc.
Điều 217: Nếu (người bệnh)
là nô lệ của dân tự do thì chủ người nô lệ phải đưa cho thầy thuốc 2 xikhơ bạc.
Điều 218: Nếu thầy thuốc
dùng dao đồng thay mổ một trường hợp rất khó khăn cho dân tự do làm người dân tự
do đó chết, hoặc dùng dao đồng thau cắt lọc ở mắt (?) cho dân tự do và làm hỏng
mắt của dân tự do, thì người thầy thuốc đó bị chặt ngón tay.
Điều 221: Nếu thầy thuốc nối
xương bị gãy cho dân tự do hoặc chữa lành chỗ sưng (?) thì người bệnh phải đưa
cho thầy thuốc 5 xikhơ bạc.
Điều 222: Nếu (người bệnh)
là con của muxkênu thì y phải trả 5 xikhơ bạc.
Điều 223: Nếu (người bệnh)
là nô lệ của dân tự do, thì chủ của người nô lệ phải trả cho thầy thuốc 2 xikhơ
bạc.
Điều 226: Nếu người thợ cắt
tóc chưa báo với người chủ của nô lệ mà cạo mất dấu hiệu nô lệ của người nô lệ
không phải của mình, thì người thợ cắt tóc đó bị chặt ngón tay.
Ù
Đây là pháp luật do vua
Hammurabi bách thắng đặt ra đem lại hạnh phúc chân chính và đặt nền thống trị
nhân từ.
Trẫm Hammurabi đức vua vô địch,
trẫm chưa hề khinh miệt dân đen mà thần Enlin đã ban cho, và trách nhiệm chăn dắt
dân đến mà thần Mácđúc giao phó cho thì trẫm cũng chưa hề lơi là, trẫm đã lo
tìm kiếm đất cư trú an toàn cho dân đen giải quyết những khó khăn to lớn, chiếu
dọi ánh sáng của họ.
Trẫm, với vũ khí mạnh mẽ do
thần Sababa và thần Isata ban cho, với trí tuệ do thần Ea ban cho, với uy lực của
thần Manđúc ban cho đã đánh đuổi được kẻ thù.
trên dưới, đình chỉ phân
tranh làm cho đất nước được hưởng thái bình, nơi ăn chốn ở của nhân dân được
che chở, không có gì phải lo âu sợ hãi.
Trẫm, nhận mệnh lệnh của cả
thần minh vĩ đại mà làm cho kẻ chăn dắt nhân từ, trên cái hốt của mình thẳng thắn
đề rằng “ân đức của trẫm, bao trùm lấy thành trì của trẫm, trẫm che chở người
Xume và người Accát trong lòng trẫm, nhờ sự giúp đỡ của nữ thần bảo hộ của trẫm
và anh em của ngài, trẫm được hoà bình ngự trị mọi người trên thế gian và dùng
trí tuệ của mình để che chở họ”.
Để cho người mạnh không hà
hiếp kẻ yếu, để cho những người cô quả có chỗ nương tựa ở thành Babilon, nơi mà
vị thủ lĩnh của nó được thần Anu và thần Enlin khen ngợi, ở đền Exajin mà nền
móng của nó lâu bền cùng với trời đất, để cho toà án trong nước tiện việc xét xử,
để cho sự tuyên án trong nước tiện việc quyết định, để cho những kẻ bị thiệt
thòi được trình bày chính nghĩa, trẫm khắc những lời vàng ngọc của trẫm lên cột
đá của trẫm trước bức tượng của trẫm cũng tức là bức tượng của một vị vua công
bằng.
Trẫm vị vua ngự trị trên
các vua, lời nói của trẫm siêu quần xuất chúng, uy lực của trẫm không ai có thể
địch nổi. Theo mệnh lệnh của vị quan toà vĩ đại của trời đất Samát chính nghĩa
của trẫm tất nhiên có thể chiếu rọi khắp thế gian, tuân theo ý chí của chúa
Mácđúc của trẫm, chế độ do trẫm đặt ra tất không ai có thể thay đổi đựơc. Trong
đền Exajin mà trẫm ưa thích, tên tuổi của trẫm tất cả sẽ vĩnh viễn được tưởng
nhớ.
Nếu có được dân tự do nào
đi kiện mà bị thiệt thòi thì đến trước bức tượng của trẫm tức là đến trước bức
tượng của vị vua công bằng đọc cái cột đá mà trẫm khắc chữ, lắng nghe những lời
vàng ngọc của trẫm, để cáicột đá của trẫm làm rõ vụ án cho người đó để người đó
đựơc xét xử một cách công bằng, để cho lòng được nhẹ nhõm mà lớn tiêntgs (?)
nói rằng: “Vị chúa Hammurabi của mình quả là vị cha hiền của loài người, ngài
đã tuân theo lời của chúa Mácđúc của ngài, đã vì thần Mácđúc đánh Nam dẹp Bắc
(?) và thu đựơc thắng lợi. Vui lòng đức chúa Mácđúc của ngài vĩnh viễn đem lại
hạnh phúc cho mọi người và sự công bằng để thống trị đất nước. Để người thành
tâm cầu phúc cho trẫm trước chúa Mácđúc, nữ chúa Xaxpanít và các thần bảo hộ.
Từ nay cho đến ngàn vạn đời
sau, các vua trong nước phải tuân theo những lời chính nghĩa của trẫm đã khắc
trên cột đá của trẫm, không được thay đổi việc xét xử tư pháp do trẫm đã quyết
định và việc thẩm tra tư pháp do trẫm đã xác lập, không được phá hoại những chế
độ do trẫm đặt ra.
Nguyện thần trời đất vĩ đại,
tất cả Anunác, thần bảo hộ các đền miếu hãy cùng nhau dùng những lời trù đáng sợ
để nguyền rủa bản thân người đó, nguyền rủa co cháu của người đó, nguyên nhân và quân đội của người đó.
Nguyện thần Enlin hãy dùng lời vàng ngọc của
mình lớn tiếng nguyền rủa người đó, và tức khắc làm cho sự nguyền rủa của ngài
giáng lên người đó.
Chú thích:
[1] Anu: Thần trời
[2] Anuhác: Các thần đất
[3] Enlin: Thần đất và là thần cao nhất của Xume, là cha và
vua của các thần.
[4] Macđúc: Thần bảo hộ Babilon – Sau khi Babilon thành
kinh đô, thần Macđúc thành vua của các thần.
[5] Ea: Thần nước, con của thần trời Anu.
[6] Quyền thống trị: nguyên nghĩa: “ Quyền lực của Enlin”
[7] Samát: Thần Mặt trời, ánh sáng và xét xử
[8] Nippua: thành phố của Xume, trung tâm tôn giáo, được
coi là thủ đô của thần Enlin
[9] Ecua: Đền thờ Enlin ở Nippua
[10] Eriđu: một thành phố ở ven bờ vịnh Ba Tư
[11] Eapzu: đền ở Eriđu (Dưới đây sau mỗi thành phố đó là
tên ở thành phố đó).
1 Xin: Thần mặt trăng
2 Aii: Vợ của thần Samát
3 Lacxa: Trước khi soạn bộ luật này ít lâu, thành Lacxa sau
một cuộc chiến tranh tàn khốc đã bị Hammurabi chiếm, do đó Hammurabi nói tha tội
cho thành Lacxa.
4 Sabaha: Thần chiến tranh, trung tâm thờ cúng thần này là
thành Kít
5 Ira: thần ổn định và đồng thời là thần chết.
6 Tutu: thần trí tuệ, trung tâm thờ cúng thần này là vùng
Eoxipa
7 Boxippa: vùng ngoại ô của thành Babilon
8 Urat: thần nông nghiệp, trung tâm thờ cúng thần này là
thành Đinba.
1 Hai loại binh chủng, có lẽ là loại trang bị vũ khí nặng
và vũ khí nhẹ
1 Loại người lĩnh canh một phần đất của vua và nộp cống cho
nhà vua.
2 1bua = 6ha35
3 1guru=121 lít
1 Nông dân: Nông dân ở đây cũng như ở điều 52, chỉ nông dân
và tamca thuê để cày ruộng hoặc người nông dân đã gán ruộng cho tamca sau lại
lĩnh canh đám ruộng đó.
2 Điều này ý nói đến đám ruộng không cày cấy thì trách nhiệm
thuộc về tamca, do đó giấy giao kèo giữa người vay nợ và tamca không vì vậy mà
thay đổi.
1 1 ca= 0,400 lít đến 0,800 lít
2 1 xikhơ = 8cm3 =180 sêun 1 sêun bằng khoảng 0.05 cm3
3 Samenlum: những người buôn chuyên phục vụ cho tamca
1 Xikêra: một loại rượu mạnh
2 Một loại bà cốt
1 Mỗi người dân Babilon đều bị cọi là nô lệ của vua
1 Dấu hiệu tượng trưng có quyền với người hay vật
2 Xem A. Hllius “Đêm Attich” jumentum (latinh) nghĩa là con
vật chở nên ngời tưởng nhầm là bị cáo, tuy ốm vẫn bị bắt ngồi trên lưng bò, ngựa,
đến hầu toà, thực ra nghĩa nguyên thuỷ của nó cũng giống như Arcera là xe có
mui, có đệm cỏ, dùng đẻ chở người ốm. người già cả: tuy nhiên nếu không thể đi
đựơc, cũng không ép.
3 Câu không khôi phục đủ.
4 Gaius (I.22,II,4). Nếu trên đường đi, cả hai bên, cáo và
bị cáo đã thoả thuận được với nhau, vẫn phải trình toà điều đó.
5 Forum là quảng trường, bãi chợ, cũng là nơi họp các Hội
nghị nhân dân (Comitia, centuriata, Comitia Tributa….
1 “ Status dies cumhoste”, Hostis (người nước ngoài)
(= Peregrinus) cho nên theo Cicero (về nghĩa vụ I: 12,37)
phiên toà được hoãn khi trùng với ngày xét xử người nước ngoài; nhưng Hostis
còn có nghĩa là kẻ thù kể cả bên trong hoặc bên ngoài mà việc xét xử không được
vắng mặt những nhân vật cần thiết.
2 1bảng bằng khoảng 0.500kg
3 Pháp quan
4 Đại hội nhân dân
5 A.Gellius nói đến án tử hình có thể không đúng mà còn nợ
không trả được, bị bán làm nô lệ (t, Livius, VI,34) Chưa hiểu vì sao phải bán
ra ngoài Tibris ( con sông chảy qua Rôma)?
1 ( A. Gellius, Đêm Áttích, XX, I,48): Nếu con nợ bị chủ nợ
đưa ra toà thị Uỷ ban 10 người ( Decumvirat) có thể ra lệnh cho chặt thân con nợ
làm nhiều khúc nhưng tôi chưa hề nghe nói thời xưa đã có ai bị chặt như thế
2 Các Vestales, các nữ “đồng trinh” có chức năng phục vụ đền
thờ nữ thần Vesta, chủ yếu là trông cọi ngọn lửa thiêng.
3 Res mancipi là các tài sản như ruộng đất ở Italia, nôlệ,
súc vật che chở, và kéo và những đồ vật khác gắn với ruộng đất.
4 Agnat là những thân thuộc của một gia đình gồm vợ, anh em
và cả bố mẹ của chủ gia đình.
1 Libertus: Nô lệ được chủ giải phóng ( cho thành người tự
do)
2 Foehtus đã nói đến một trường hợp tương tự: “Khi Libertus
không có ai thân thuộc, dưới quyền, qua đời mà không kịp trối lại gì, thì động
sản do người chủ cũ cho trước kia lại được chuyển về ch chủ cũ”.
3 Theo Varo “Nexus” là người tự do mắc nợ, không trả được,
phải tự gán mình làm nô lệ
1 Có thể hiểu điều 7,8,9 như sau: Lấy cắp sào của người
khác để làm giàn nho thì bị phạt gấp đôi: phát hiện sào bị lấy cắp, không được
tự ý phá giàn nho; nho thu hoạch xong thì phải dỡ giàn.
2 Chân (Pes) = 2,96 cm
1 Câu này không đủ, nên khó hiểu
1 Chưa rõ phạt ai. Câu này còn tối nghĩa, hay viết không chặt.
1 Theo điều 18a, phải chăng lãi suất 1% thì được còn quá 1%
thì phạm pháp?
2 Collegin- Hiệp hội, tập hợp những người cùng nghề nghiệp
1 Pes (chân) = 29,6 cm
Xem Thêm:
Comments
Post a Comment