THIÊN THỨ VII
THỦ TỤC LINH TINH
CHƯƠNG THỨ NHỨT
ĐỀ CUNG HIỆN VẬT VÀ KÝ THÁC
Điều thứ 461 – Con nợ muốn tránh hoặc chấm dứt sự
truy sách, trong trường hợp chủ nợ không chịu nhận số tiền hoặc đồ vật giao
trả, có thể đề cung hiện vật. Nếu chủ nợ từ khước sự đề cung con nợ sẽ được
giải nhiệm sau khi ký thác số tiền hoặc đồ vật đã đề cung, theo các thể thức đã
dự liệu trong chương này.
Điều thứ 462 – Các đề cung hiện vật chỉ có giá trị
nếu hội đủ các điều kiện sau đây:
1. Sự đề cung phải thực hiện nơi
tay chủ nợ có năng lực để thâu nhận, hoặc nơi tay người nào có quyền thu nhận
nhân danh chủ nợ.
2. Sự đề cung phải thực hiện do một người có năng lực để trả số nợ còn thiếu.
2. Sự đề cung phải thực hiện do một người có năng lực để trả số nợ còn thiếu.
3. Sự đề cung phải bao gồm toàn
bộ số tiền thiếu, tính luôn số nợ gốc, tiền lời và sở phí đã thanh toán cùng
một đồng bạc tượng trưng các sở phí chưa thanh toán sẽ được bổ túc sau.
4. Sự đề cung phải được thực hiện đúng theo các điều kiện của món nợ ; nếu khế ước có dự định một hạn kỳ lợi ích cho chủ nợ,con nợ chỉ có thể đề cung sau khi hạn kỳ đã mãn;
5. Sự đề cung phải thực hiện tại nơi ấn định để trả nợ hoặc nếu không có sự thỏa thuận, nơi cư sở thực sự hoặc quyền tuyển định của chủ nợ.
4. Sự đề cung phải được thực hiện đúng theo các điều kiện của món nợ ; nếu khế ước có dự định một hạn kỳ lợi ích cho chủ nợ,con nợ chỉ có thể đề cung sau khi hạn kỳ đã mãn;
5. Sự đề cung phải thực hiện tại nơi ấn định để trả nợ hoặc nếu không có sự thỏa thuận, nơi cư sở thực sự hoặc quyền tuyển định của chủ nợ.
6. trong mọi trường hợp, sự đề
cung phải khả chấp và đầy đủ.
Điều thứ 463 – Sự đề cung sẽ được chứng minh bằng
một biên bản của thừa phát lại.
Nếu là đồ vật biên bản phải mô tả thế
nào để không bị thay thế bằng một món khác, nếu là tiền mặt biên bản phải ghi
giấy bạc loại nào và mỗi thứ có mấy tờ, nếu là chi phiếu phải ghi số chi phiếu,
tên ngân hàng sẽ trả tiền và ngày tháng kiểm nhận.
Biên bản phải ghi rõ sự chấp nhận hay
hay lý do từ khước của chủ nợ. chủ nợ sẽ ký vào biên bản, nếu từ khước hay
không biết ký biên bản sẽ ghi rõ.
Điều thứ 464 – Trong trường hợp chủ nợ từ khước, sự
đề cung tiền bạc chứng khoán, văn kiện hoặc nữ trang, con nợ sẽ đem ký thác các
món này tại phòng lục sự tòa án nơi trả nợ, hoặc nơi cư sở của chủ nợ.
Nếu sự đề cung bằng chi phiếu bị
khước từ, con nợ phải ký thác một số tiền mặt tương đương.
Lục sự phải ghi sự ký thác vào một
quyển sổ riêng biệt và cấp biên lai cho đương sự.
Điều thứ 465 – Lục sự sẽ gửi trát đòi các đương sự
ra trước phiên xử về dân sự gần nhất của tòa sơ thẩm, để nghe xét xử về giá trị
của sự đề cung. Sở phí về thủ tục sẽ do con nợ ứng trước cùng một lúc với sự ký
thác.
Điều thứ 466 – Nếu chủ nợ từ khước sự đề cung một
vật xác định như là súc vật, hàng hóa, thực phẩm hay bất cứ động sản nào khác
hơn những loại đã kể trong điều 464 trên đây, con nợ sẽ xin chánh án tòa sơ
thẩm một án lệnh phê đơn cho phép ký thác vật ấy nơi tay một đệ tam nhân, hoặc
tại nhà hay kho của chính con nợ.
Sau khi ký thác, con nợ sẽ đốc thúc
chủ nợ đến lãnh trong thời hạn tám ngày sau đó con nợ sẽ vào đơn khởi tố để xin
phê chuẩn.
Trong trường hợp đồ vật phải được
giao một chỗ nhất định, thừa phát lại khỏi mang đến cư sở của chủ nợ, mà chỉ
cần đốc thúc người này đến chỗ đó để nhận lãnh.
Điều thứ 467 – Nếu mon đồ để lâu ngày sẽ hư hao hoặc
mất giá, con nợ có quyền sau khi từ chối sự đề cung, triệu hoán ngắn hạn người
này ra trước tòa cấp thẩm để xin phát mãi.
Tiền thâu được sẽ ký quỹ vào phòng
lục sự để chờ kết quả đơn xin phê chuẩn sự đề cung.
Điều thứ 468 – Sự đề cung nếu được phê chuẩn sẽ giải
nhiệm cho con nợ như là một sự trả nợ, và chủ nợ sẽ chịu mọi sự rủi ro xảy đến
cho vật ký thác kể từ ngày đề cung. Cũng kể từ ngày này con nợ khỏi phải trả
tiền lời của số nợ gốc.
Ngoài ra, chủ nợ còn phải trả tất cả
sở phí về việc đề cung và sự ký thác.
CHƯƠNG THỨ II
SỰ CHUẨN HÀNH CÁC ÁN VĂN NGOẠI QUỐC
Điều thứ 469 – Các án văn do tòa án ngoại quốc tuyên
xử chỉ có hiệu lực chấp hành trên lãnh thổ Việt Nam sau khi đã được chuẩn hành.
Phải được chuẩn hành chẳng những các
án văn có hiệu lực chấp hành trên tài sản và thân thể của con nợ, mà luôn cả
các án văn truyền một thể thức công bố trên những sổ bộ công lập, như các sự
ghi chú đăng ký, sửa đổi hay bôi bỏ.
Điều thứ 470 – Án văn ngoại quốc chỉ được chuẩn hành
nếu hội đủ các điều kiện sau đây:
1. Án văn được tuyên xử do một
tòa án có thẩm quyền chiếu theo các nguyên tắc tư pháp quốc tế áp dụng cho Việt
Nam, ngoại trừ trường hợp chắc chắn rằng đối phương không nêu khước biện vô
thẩm quyền ;
2. trong án văn không có điều gì
trái với trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục của Việt Nam.
3. Các đương sự đã được đòi hợp
lệ ra trước tòa án và đã xuất đình hoặc bị tuyên bố khuyết tịch hợp lệ ; dầu xử
khuyết tịch, án văn cũng phải viện dẫn lý do ;
4. án văn đã có uy lực quyết
tụng và có thể chấp hành theo luật pháp của quốc gia nơi án văn đã được tuyên
xử.
5. chưa có một tòa án Việt Nam
nào được thụ lý chính vụ tranh tụng đã được tòa án ngoại quốc giải quyết.
Điều thứ 471 - Án văn sẽ được chuẩn hành dầu
rằng tòa án ngoại quốc đã theo các nguyên tắc phân tranh luật pháp khác
với nguyên tắc áp dụng tại Việt Nam, ngoại trừ trường hợp tòa án ngoại quốc đã
áp dụng một luật ngoại quốc trong khi Việt Nam phải được áp dụng, chiếu theo
nguyên tắc phân tranh luật pháp của Việt Nam.
Điều thứ 472 – Tòa án có thẩm quyền để chuẩn hành là
tòa sơ thẩm, xử việc dân sự, không kể đến tính chất và cấp bực của tòa án ngoại
quốc.
Tòa án có thẩm quyền về địa hạt là
tòa sơ thẩm Sài Gòn hoặc tòa sơ thẩm Huế, tùy theo việc chấp hành phải thực
hiện trong quản hạt Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn hay Tòa Thượng Thẩm Huế.
Điều thứ 473 – Người xin chuẩn hành phải vào đơn
chuẩn tố đối phương theo thủ tục thông thường. tuy nhiên nếu án văn ngoại quốc
không làm thiệt hại đến quyền lợi của đệ tam nhân, đơn sự có thể nạp đơn xin
chuẩn hành theo thủ tục nguyên đơn.
Điều thứ 474 – Đương sự phải kèm theo đơn xin chuẩn
hành:
1. một bản đại tự án văn;
2. truyền phiếu tống đạt án văn
cho bị đơn, hay văn kiện nào khác có giá trị như truyền phiếu này;
3. một chứng chỉ không kháng tố
và kháng cáo, hay văn kiện nào khác chứng minh rằng án văn ngoại quốc có uy lực
quyết tụng và có thể chấp hành;
4. một bản sao trát đòi ra phiên
tòa, nếu bị đơn đã bị xử khuyết tịch.
Tất cả các văn kiện phải được dịch ra
tiếng Việt Nam, chữ ký của thông dịch viên phải được thị nhận do thẩm phán có
thẩm quyền. Chữ ký của thẩm phán này lại phải được thị nhận do Bộ ngoại giao
của quốc gia liên hệ. Sau cùng bản dịch phải có chiếu khán của đại diện ngoại
giao Việt Nam tại quốc gia nói trên.
Điều thứ 475 – Tòa án có thể buộc đương sự xin chuẩn
hành phải xuất hành một chứng chỉ về luật pháp ngoại quốc được áp dụng.
Chứng chỉ này sẽ được cấp phát do ba
luật gia của quốc gia liên hệ, hoặc do vị đại diện ngoại giao của quốc gia này
tại Việt Nam; chứng chỉ của các luật gia sẽ được thị nhận và chiếu khán theo
thể thức ấn định nơi điều 474 trên đây.
Điều thứ 476 – Theo nguyên tắc tòa án không xét lại
nội dung vụ tranh tụng mà chỉ kiểm soát coi án văn xin chuẩn hành có hội đủ các
điều kiện trên đây hay không; sự nhận xét về điểm này sẽ được ghi chú trong bản
án.
Tuy nhiên, nếu bị đơn trong vụ tranh
tụng là một pháp nhân hay thể nhân Việt Nam, tòa án cỏa thể xét lại nội dung án
văn ngoại quốc.
Điều thứ 477 – Nếu xét án văn ngoại quốc hội đủ điều
kiện cần thiết, tòa án sẽ truyền chuẩn hành.
Tòa án có thể chỉ truyền chuẩn hành
một phần của án văn ngoại quốc mà thôi.
Nếu án văn ngoại quốc truyền một biện
pháp công bố, tòa án có thể buộc đương sự xin chuẩn hành phải công bố lại tại
Việt Nam, mặc dù biện pháp này đã được thực hiện tại ngoại quốc.
Điều thứ 478 – Án văn được chuẩn hành sẽ có hiệu lực
đối với các đương sự trong vụ tranh tụng và có uy lực quyết tụng tại Việt Nam
cũng như các án văn do tòa án Việt Nam tuyên xử.
Điều thứ 479 – Án văn xét xử về đơn xin chuẩn hành
có thể bị kháng án theo các phương cách thông thường.
Điều thứ 480. – Những chứng thư do các công lại ngoại
quốc lập ra , cũng phải được chuẩn hành mới có hiệu lực chấp hành tại Việt Nam.
Điều thứ 481 – Thủ tục dự liệu trong chương này
không áp dụng đối với các đương sự có quyền viện dẫn một hiệp định quốc tế giữa
Việt Nam và một quốc gia khác, có dự liệu một thủ tục chuẩn hành giản dị hơn.
CHƯƠNG THỨ III
SỰ TRỌNG TÀI
Điều thứ 482 – Bất cứ người nào cũng có thể, bằng
một khế ước trọng tài thỏa thuận để giải quyết những vụ tranh chấp liên quan
đến những quyền mà mình có năng cách để hành xử.
Điều thứ 483 – Tuy nhiên người ta không thể ký kết
một khế ước trọng tài về nợ cấp dưỡng, về ly thân và ly hôn, về thân trạng, và
về những vụ phải được thông tri cho công tố viện.
Điều thứ 484 – Khế ước trọng tài bắt buộc phải ký
kết bằng văn tự dưới hình thức một tư hay công chứng thư, hoặc một vi bằng
thiết lập trước trọng tài đã được chon cử.
Khế ước phải chỉ rõ đối tượng vụ tranh chấp, cùng danh tánh của trọng tài, nếu không sẽ vô hiệu.
Khế ước phải chỉ rõ đối tượng vụ tranh chấp, cùng danh tánh của trọng tài, nếu không sẽ vô hiệu.
Điều thứ 485 – Thời hạn để trọng tài phải xét xử vụ
tranh chấp sẽ là ba tháng kể từ ngày ký kết khế ước trọng tài, nếu các đương sự
không có ấn định một thời gian nào.
Điều thứ 486 – Các đương sự có quyền chọn cử một hay
nhiều trọng tài mà tổng số có thể là một số chẵn.
Trọng tài chỉ có thể bị bãi nhiệm với
sự đồng ý của tất cả các đương sự đã ký kết khế ước trọng tài.
Điều thứ 487 – Một khi đã khởi sự hành nhiệm, trọng
tài không thể tự ý rút lui nếu không chứng minh được lý do chính đáng.
Trọng tài có thể bị cáo tị vì những
duyên cớ được quy định trong bộ luật này cho việc cáo tị thẩm phán; tuy nhiên,
chỉ có thể chấp nhận những duyên cớ cáo tị phát sinh kể từ ngày ký kết khế ước
trọng tài.
Điều thứ 488 – Đương sự và trọng tài sẽ tuân theo
những thời hạn và thể thức thường lệ áp dụng trước các tòa án, trừ phi khế ước
có dự liệu khác.
Điều thứ 489 – Những hành vi thẩm thấu và những biên
bản sẽ do toàn thể các trọng tài cùng chung thi hành và thiết lập, trừ phi khế
ước cho phép họ ủy thác cho một người trong thành phần họ.
Điều thứ 490 – Nếu có xảy ra một sự tố cáo giả mạo,
dù cho chỉ có tính cách phụ đới dân sự, hay một đới tranh hình sự nào khác,
hoặc nếu có một vấn đề tiên quyết thuộc thẩm quyền của tòa dân sự thủ tục
trọng tài phải tạm đình chỉ để cho các đương sự tùy nghi khiếu tố. Thời hạn của
thủ tục trọng tài sẽ tiếp tục khởi tiến kể từ ngày có quyết định giải quyết vụ
đới tranh.
Điều thứ 491 – Khế ước trọng tài sẽ chấm dứt vì
những duyên cớ sau đây:
1) Sự từ trần, từ khước, rút lui
hay bị cản trở của một trong những trọng tài, nếu khế ước trọng tài không có dự
liệu sự chọn cử một trọng tài khác thay thế, hoặc không có định rằng một trọng
tài khác thay thế, hoặc không có định rằng thủ tục vẫn tiến hành với những
trọng tài còn lại.
2) Sự mẫn hạn của thời gian ước
định hay thời gian ba tháng nói ở điều 485 trên đây.
3) Sự đồng số phiếu giữa các
trọng tài, nếu khế ước không dự liệu rằng các trọng tài được quyền chọn cử một
đệ tam trọng tài.
Điều thứ 492 – Sự từ trần của một đương sự không
chấm dứt khế ước trọng tài, nếu các thừa kế đều thành niên; thời hạn của sự
trọng tài sẽ tạm đình chỉ cho đến khi đối phương đốc thúc các thừa kế đó tham
dự vào thủ tục.
Điều thứ 493 – Trọng tài phải xét xử căn cứ vào
những tài liệu do các đương sự xuất trình.
Điều thứ 494 – Quyết định trọng tài sẽ được tất cả
các trọng tài ký tên. Nếu có hơn hai trọng tài, và nếu thiểu số không chịu lý,
các trọng tài đa số sẽ ghi chú việc đó và quyết định sẽ là giá trị như là tất
cả đều có lý.
Trong mọi trường hợp, quyết định
trọng tài không thể bị kháng tố.
Điều thứ 495 – Nếu có sự đồng ý số phiếu giữa các
trọng tài và nếu khế ước cho phép, các trọng tài sẽ chọn cử một đệ tam trọng
tài ngay trong quyết định tuyên bố có sự đồng số phiếu.
Trong trường hợp họ không thể thỏa
thuận về sự chọn cử, đệ tam trọng tài sẽ được chỉ định do chánh án tòa sơ thẩm
nơi họp trọng tài, theo thỉnh cầu của đương sự mẫn cán nhứt.
Mỗi khi có sự đồng số phiếu, hai bên
bất đồng ý kiến đều phải ghi rõ lập trường của mình, hoặc cùng trong một vi
bằng, hoặc trong hai vi bằng riêng biệt.
Điều thứ 496 – Đệ tam trọng tài phải quyết định
trong vòng một tháng kể từ ngày nhậm chức, trừ phi thời hạn đó được tăng thêm
do văn thư bổ nhiệm.
Đệ tam trọng tài phải thảo nghị với
tất cả trọng tài thuộc hai bên đối lập, trước khi quyết định. Các trọng tài
phải được đối thúc đến nhóm họp, nếu họ không đến đệ tam trọng tài vẫn có quyền
quyết định.
Trong mọi trường hợp, đệ tam trọng
tài bắt buộc phải xử theo ý kiến của một trong hai bên.
Điều thứ 497 – Trọng tài và đệ tam trọng tài sẽ xét
xử theo đúng luật pháp, trừ phi khế ước trọng tài có cho họ quyền quyết định
theo đường lối dẫn hòa.
Điều thứ 498 – Quyết định trọng tài kể cả những
quyết định tiên thẩm chỉ có hiệu lực chấp hành sau khi được chánh án tòa sơ
thẩm nơi họp trọng tài chuẩn hành, bằng một án lệnh phê vào dưới quyết định.
Để xin án lệnh chuẩn hành, trọng tài
phải ký nạp tại phòng lục sự nguyên bổn quyết định, trong vòng tám ngày sau khi
tuyên đọc.
Nếu sự trọng tài đã giải quyết một vụ
bị kháng cáo, quyết định sẽ được ký nạp như trên tại phòng lục sự Tòa thượng
thẩm, án lệnh chưa chuẩn hành sẽ chấm dứt phê ký.
Trong thủ tục chuẩn hành, quyết định
của trọng tài không cần phải thông tri cho công tố viện.
Quyết định trọng tài được chuẩn hành
sẽ lưu trữ tại phòng lục sự vào hàng nguyên bổn để được cấp phát đại tự và toàn
sao.
Sở phí về việc ký nạp và trước bạ đều
do các đương sự gánh chịu.
Điều thứ 499 – Những tranh tụng liên quan đến sự
chấp hành quyết định trọng tài sẽ thuộc quyền xét xử của tòa án nơi vị chánh án
đã ban án lịnh chuẩn hành.
Điều thứ 500 – Quyết định trọng tài sẽ không có hiệu
lực đối kháng với đệ tam nhân.
Điều thứ 501 – Quyết định trọng tài có thể bị kháng
cáo lên:
1. Tòa sơ thẩm nếu vụ tranh tụng
được giải quyết thuộc thẩm quyền tòa hòa giải.
2. Tòa thượng thẩm nếu vụ tranh
tụng được giải quyết thuộc thẩm quyền tòa sơ thẩm
Tuy nhiên quyết định trọng tài không
thể bị kháng cáo:
1. Nếu các đương sự đã từ bỏ quyền kháng cáo ngay trong trọng tài khế ước hay sau khi ký kết khế ước này.
1. Nếu các đương sự đã từ bỏ quyền kháng cáo ngay trong trọng tài khế ước hay sau khi ký kết khế ước này.
2. nếu trọng tài đã quyết định
theo đường lối dàn hòa.
3. Nếu trọng tài đã giải quyết một vụ bị kháng cáo hay bị xin thâu hồi nguyên án.
3. Nếu trọng tài đã giải quyết một vụ bị kháng cáo hay bị xin thâu hồi nguyên án.
Điều thứ 502 - Sự kháng cáo và xét xử kháng
cáo sẽ làm theo thể thức và thời hạn dự liệu trong bộ luật này cho việc kháng
cáo và xét xử kháng cáo các bản án sơ thẩm.
Điều thứ 503 – Quyết định trọng tài cũng có thể bị
thâu hồi bằng phương sách xin thâu hồi nguyên án theo các thời hạn, thể thức và
trường hợp thâu hồi nguyên án được dự liệu trong việc thu hồi các án văn.
Điều thứ 504 – Tuy nhiên quyết định trọng tài cũng
có thể bị tiêu hủy trong những trường hợp sau đây mà không cần phải áp dụng
phương sách kháng cáo hay thâu hồi nguyên án.
1. Nếu quyết định trọng tài đã
được tuyên xử mặc dù không có một khế ước trọng tài nào, hoặc ngoài phạm vi dự
định trong khế ước.
2. Nếu quyết định trọng tài đã
căn cứ vào một khế ước trọng tài vô hiệu hay đã mãn hạn.
3. Nếu quyết định của trọng tài
đã được tuyên do một số trọng tài không được phép xét xử nếu không có sự tham
dự của các trọng tài khác.
4. Nếu quyết định của trọng tài
đã được tuyên xử do một đệ tam trọng tài không có thảo nghị trước với hai bên
trọng tài đối lập.
5. Nếu quyết định trọng tài đã xét xử về những điểm ngoài sự thỉnh cầu của các đương sự.
5. Nếu quyết định trọng tài đã xét xử về những điểm ngoài sự thỉnh cầu của các đương sự.
Trong những trường hợp vừa kể, các
đương sự chỉ cần kháng tố án lệnh chuẩn hành để xin tiêu hủy quyết định của
trọng tài, nội vụ sẽ được đem ra xét xử trước tòa nơi vị chánh án đã ký án lệnh
này.
Điều thứ 505 – Án văn của tòa xử về việc kháng cáo
hay thâu hồi nguyên án chống một quyết định trọng tài có thể bị thượng tố trước
tối cao pháp viện.
CHƯƠNG THỨ IV
VỀ VIỆC NIÊM PHONG TÀI-SẢN
TIẾT I
SỰ GẮN NIÊM PHONG
Điều thứ 506 – Việc niêm phong tài sản người mệnh
một, nếu cần phải có sẽ do chánh án tòa hòa giải hay thẩm phán thay thế thực
hiện thẩm phán hòa giải có thẩm quyền là thẩm phán hòa giải nơi phải niêm
phong.
Trong trường hợp bận việc hoặc có sự
cấp bách, thẩm phán hòa giải có thẻ ủy quyền cho lục sự thực hiện công việc
niêm phong, sự ủy quyền này không thể bị kháng án và sẽ được miễn trước bạ.
Điều thứ 507 – Thẩm phán hòa giải, hoặc những người
được ủy quyền sẽ sử dụng một con dấu đặc biệt được chính họ giữ và có mẫu in
được ký nạp tại phòng lục sự.
Điều thứ 508 – Có thể yêu cầu thực hiện niêm phong:
1. Những người có quyền lợi
trong một di sản hay cộng đồng tài sản;
2. Tất cả các chủ nợ có chứng khoán chấp hành hoặc được chánh án tòa sơ thẩm hay tòa hòa giải nơi phải thực hiện sự niêm phong cho phép;
2. Tất cả các chủ nợ có chứng khoán chấp hành hoặc được chánh án tòa sơ thẩm hay tòa hòa giải nơi phải thực hiện sự niêm phong cho phép;
3. Những người cư ngụ chung với
người quá cố hay người làm công cho Điều thứ người quá cố, trong trường hợp
người phối ngẫu hay các thừa kế vắng mặt.
Điều thứ 509 – Những người có quyền lợi và các chủ
nợ vị thành niên đã thoát quyền có thể yêu cầu niêm phong mà không cần có quản
tài hỗ trợ.
Nếu những người trên đây là vị thành
niên chưa thoát quyền, một người trong thân tộc của họ có thể xin niêm phong.
Điều thứ 510 – Sự niêm phong còn được thực hiện theo
lời yêu cầu, hoặc của công tố viện, hoặc theo sự khai báo của tỉnh trưởng, đô
trưởng, thị trưởng, quận trưởng hay xã trưởng hoặc đương nhiên do chánh án hòa
giải, trong những trường hợp sau đây:
1. Nếu trẻ vị thành niên không
có thủ hộ, và không có người trong thân tộc xin niêm phong.
2. Nếu người phối ngẫu thượng
tồn, hay một hoặc tất cả các thừa kế vắng mặt.
3. Nếu người chết là một viên
chức công thác,trong trường hợp này, sự niêm phong sẽ thực hiện vì lý do có sự
ký thác và chỉ trên những đồ vật ký thác mà thôi.
Điều thứ 511 – Nếu niêm phong không được thực hiện
trước khi chon cất, thẩm phán hòa giải sẽ ghi nhận vào biên bản ngày giờ được
triệu thỉnh, hoặc việc gắn niêm phong.
Điều thứ 512 – Biên bản niêm phong sẽ ghi rõ:
1) Năm, tháng, ngày giờ
2) Các lý do của sự niêm phong;
3) Tên họ, nghề nghiệp, cư sở
của người xin niêm phong, sử tuyển định cơ sở của người này tại nơi niêm phong
nếu đương sự không trú ngụ tại đó;
4) Nếu không có đương sự nào
đứng xin, sự niêm phong đã được thực hiện đương nhiên hay theo sự hiệu thỉnh
của những viên chức nói ở điều 510.
5) Án lệnh cho phép niêm phong,
nếu có;
6) Sự hiện diện và lời khai nại
của các đương sự;
7) Những nơi, văn phòng, rương
tủ, mà cửa và nắp đã được niêm phong;
8) Sự mô tả sơ lược những đồ vật
không bị niêm phong;
9) Lời tuyên thệ, khi hoàn tất
việc niêm phong, của những người cư ngụ tại chỗ rằng họ không có đoạt thủ bất
cứ vật gì và họ cung không nghe thấy trực tiếp hay gián tiếp làm như vậy;
10) Sự chỉ định người khán thủ được giới thiệu nếu người này hội đủ những điều kiện cần thiết; hoặc sự đương nhiên chỉ định người khán thủ, nếu không có ai được giới thiệu hay người được giới thiệu không hội đủ điều kiện.
10) Sự chỉ định người khán thủ được giới thiệu nếu người này hội đủ những điều kiện cần thiết; hoặc sự đương nhiên chỉ định người khán thủ, nếu không có ai được giới thiệu hay người được giới thiệu không hội đủ điều kiện.
Điều thứ 513 – Chìa khóa của những ổ khóa bị niêm
phong sẽ được giao cho lục sự cất giữ cho đến ngày mở niêm phong, và lục sự
phải ký nhận và biên bản niêm phong.
Cho đến ngày mở niêm phong, thẩm phán
hay lục sự đã thực hiện niêm phong cũng như lục sự giữ chìa khóa đều không được
đến nơi niêm phong, ngoài trừ trường hợp bị triệu thỉnh, và sự lý khám phải
được quyết định trước một án lệnh có viện dẫn lý do.
Điều thứ 514 – Trong lúc niêm phong, nếu nhận thấy
có chúc ngôn hay giấy tờ được niêm kín, thẩm phán hòa giải sẽ ghi nhận hình
thức bên ngoài của phong bì những ghi chú và con dấu nếu có, sẽ ký tắt trên
phong bì với các đương sự có mặt nếu những người này biết ký và có thể ký; một
biên bản về các sự kiện trên đây sẽ được thành lập với chữ ký của các đương sự
có mặt, biên bản sẽ được từ khước ký tên nếu có, và ngày giờ các giấy tờ kể
trên sẽ được đem nạp tại chánh án tòa sơ thẩm.
Điều thứ 515 – Vào ngày giờ ấn định trong biên bản
nói trên và không cần đòi lại các đương sự, thẩm phán hòa giải đưa trình chánh
án tòa sơ thẩm các giấy tờ niêm kín, chánh án tòa sơ thẩm mở ra, kiểm nhận tình
trạng những tài liệu dựng bên trong, và nếu có tài liệu liên quan đến di sản,
sẽ mô tả và truyền ký thác tại phòng chưởng khế sở tại hay tại phòng lục sự nếu
không có phòng chưởng khế.
Điều thứ 516 – Nếu theo sự ghi chú bên ngoài hoặc
theo những tài liệu viết khác, các phong bì niêm kín này có vẻ thuộc quyền sở
hữu của đệ tam nhân, chánh án tòa sơ thẩm sẽ cho đòi người này đến dự kiến việc
khai mở, nếu các văn kiện trong phong bì không liên quan đến di sản, chánh án
sẽ giao cho đệ tam nhân, nếu người này vắng mặt, chánh án sẽ niêm kín trở lại
để giao trả khi người này đến xin lãnh.
Điều thứ 517 – Khi tìm thấy một chúc ngôn không có
niêm kín, thẩm phán hòa giải sẽ lập vi bằng mô tả và truyền ký thác y như đã dự
liệu ở điều 515.
Điều thứ 518 – Không thể đặt niêm phong nếu biên bản
toàn kê tài sản đã lập xong, ngoại trừ trường hợp biên bản này bị chỉ trích và
chánh án tòa sơ thẩm ký án lệnh cho phép niêm phong.
Nếu có sự thỉnh cầu niêm phong trong
khi đang lập biên bản toàn kê khai tài sản, sự niêm phong chỉ được thực hiện
trên những đồ vật chưa được kê khai.
Điều thứ 519 – Nếu không có động sản nào cần phải
niêm phong, thẩm phán hòa giải sẽ lập vi bằng khiếm khuyết tài sản.
Đối vơi những động sản cần thiết cho
sự sống của những người còn ở trong nhà, hoặc đối với những động sản không thể
niêm phong được, thẩm phán hòa giải cũng sẽ lập biên bản mô tả sơ lược.
Điều thứ 520 – Mỗi phòng lục sự tòa sơ thẩm đều phải
giữ một quyển sổ ghi chép các sự niêm phong và trong vòng hai mươi bốn giờ (24)
sau khi thực hiện sự niêm phong, chánh án phải truyền ghi vào sổ này:
1. tên họ, cư sở của nhữn người
có đồ đạc bị niêm phong
2. ngày thực hiện việc niêm
phong
3. tên, nơi ở của thẩm phán hành
sự.
TIẾT II
SỰ PHẢN KHÁNG NIÊM PHONG
Điều thứ 521 – Sự phản kháng niêm phong có thể thực
hiện bằng lời khai ghi vào biên bản niêm phong hoặc bằng truyền phiếu của thừa
phát lại tống đạt nơi tay lục sự tòa án sở quan.
Điều thứ 522 – Mọi sự phản kháng của niêm phong phải được ghi rõ, nếu không sẽ vô hiệu:
Điều thứ 522 – Mọi sự phản kháng của niêm phong phải được ghi rõ, nếu không sẽ vô hiệu:
1. Việc truyền định cư sở trong
quản hạt của tòa án nơi thực hiện niêm phong, nếu đương sự phản kháng không cư
ngụ tại đó;
2. Lý do, được hài ra rõ rệt, của sự phản kháng
2. Lý do, được hài ra rõ rệt, của sự phản kháng
NIÊM PHONG TÀI SẢN
TIẾT III
SỰ GỠ NIÊM PHONG
Điều thứ 523 – Niêm phong chỉ có thể được gỡ và bản
toàn kê tài sản chỉ được lập ra ba (3) ngày sau lễ mai táng nếu đã gắn niêm
phong trước khi đó, và ba ,ngày sau khi niêm phong nếu gắn sau lúc mai táng,
nếu vi phạm, biên bản gỡ niêm phong và bản toàn kê sẽ vô giá trị, chưa kể rằng
người triệu thỉnh, và người lập biên bản còn có thể bị bồi thường thiệt hại,
trừ khi vì lý do khẩn cấp được ghi rõ trong án lệnh chánh án tòa sơ thẩm đã cho
phép rút ngắn thời hạn.
Điều thứ 524 – Nếu tất cả hay một vài thừa kế còn vị
thành niên chưa thoát quyền, việc gỡ niêm phong không thể tiến hành trước khi
họ có người giám hộ hay được thoát quyền.
Điều thứ 525 – Tất cả những người có quyền xin găn
niêm phong đều có thể yêu cầu gỡ , ngoại trừ những người đã xin gắn niêm phong
chiếu điều 508.
Điều thứ 526 – Các thể thức để đi đến việc gỡ niêm phong
gồm:
1. Lời thỉnh gỡ niêm phong được
ghi vào biên bản của thẩm phán hòa giải.
2. Án lệnh của thẩm phán ấn định
ngày và giờ sẽ gỡ niêm phong;
3. Một tờ đốc thúc đến dự kiến việc gỡ niêm phong tống đạt cho người phối ngẫu thượng tổn, cho các thừa kế tiên định,cho người thi hành di chúc cho các người thụ di bao quát hay với tính cách bao quát, nếu được biết, và cho những người phản kháng.
3. Một tờ đốc thúc đến dự kiến việc gỡ niêm phong tống đạt cho người phối ngẫu thượng tổn, cho các thừa kế tiên định,cho người thi hành di chúc cho các người thụ di bao quát hay với tính cách bao quát, nếu được biết, và cho những người phản kháng.
Không cần phải gọi đến các đương sự ở
cách xa hơn 50 cây số, những chánh án phải tự ý chỉ định một chưởng khế để thay
mặt cho họ lúc gỡ niêm phong và lập bản toàn kê.
Những người phản kháng sẽ được gọi
tại cư sở tuyển định của họ.
Điều thứ 527 – Người phối ngẫu, người thi hành di
chúc, các người thừa kế, các người thụ di bao quát hay với tính cách bao quát
và các người phản kháng đều có thể đích thân, hay do người được ủy quyền, dự
kiến tất cả các buổi gỡ niêm phong và lập bản toàn kê.
Điều thứ 528 – Người phối ngẫu cộng đồng tài sản,
các người thừa kế, người thi hành di chúc, các người thụ di bao quát hay với tính
cách bao quát và các người phản kháng có thể thỏa hiệp cùng nhau chọn lựa một
hay hai chưởng khế và một hay hai hổ giá viên hay giám định viên, nếu họ không
thỏa thuận với nhau được, chánh án sẽ tùy theo bản chất các tài vật, tự ý chỉ
định một hay hai chưởng khế, hổ giá viên hay giám định viên. Các giám định viên
sẽ tuyên thệ trước thẩm phán hòa giải.
Điều thứ 529 – Biên bản gỡ niêm phong phải ghi:
1. ngày tháng;
2. tên họ, nghề nghiệp, trú quán
và cư sở tuyển định của người triệu thỉnh;
3. Án lệnh truyền gỡ niêm phong;
4. Tờ đốc thúc dự liệu cho điều
526 trên đây;
5. Sự xuất tịch và lời khai nại
của các đương sự;
6. Sự chỉ định các chưởng khế,
hổ giá viên và giám định viên;
7. Sự kiểm nhận các dấu niêm
phong nếu còn nguyên vẹn, hay nếu không còn tình trạng nguyên vẹn tình trạng
các chỗ bị nguy cải, để tùy nghi đối phó với các sự nguy cải ấy;
8. Các thỉnh cầu khác có thể
được đưa ra để xin xét định.
Điều thứ 530 – Các dấu niêm phong sẽ được gỡ lần lần
để đồng thời lập bản toàn kê tài sản, các dấu niêm phong sẽ được gắn lại sau
mỗi buổi nếu công việc chưa xong.
Điều thứ 531 – Nếu có các đồ vật và giấy tờ không
thuộc di sản và có người đệ tam đòi, các đồ vật đó sẽ được giao cho sở hữu chủ,
nếu không thể giao trả ngay nếu cần phải mô tả, sự mô tả này sẽ ghi vào biên
bản gỡ niêm phong chớ không phải vào bản toàn kê.
Điều thứ 532 – Nếu lý do để gắn niêm phong đã chấm
dứt trước khi niêm phong được gỡ hay trong lúc đang gỡ, các niêm phong này sẽ
được gỡ mà không cần mô tả.
Điều thứ 533 – Tại những nơi chưa có tòa hòa giải,
chánh án sơ thẩm hay thẩm phán thay thế sẽ lãnh nhiệm vụ của thẩm phán hòa giải
định trong tiết 1,2 và 3 trên đây.
TIẾT 4
VỀ BẢN TOÀN KÊ
Điều thứ 534 – Những người có quyền xin gỡ niêm
phong đều có quyền xin lập bản toàn kê.
Điều thứ 535 – Bản toàn kê phải được làm trước sự
hiện diện của những người sau đây hay sau khi họ đã được đòi hợp lệ:
1) người phối mẫu thượng tổn;
2) Những thừa kế tiên đỉnh;
3) Người thi hành di chúc nếu
chúc thư được biết;
4) Những người thụ tặng và thụ
di bao quát hay với tính cách bao quát. Chánh án tòa sơ thẩm sẽ chỉ định một
chưởng khế duy nhất để đại diện cho tất cả những người vắng mặt.
Điều thứ 536 – Ngoài những thể thức chung cho tất cả
các chứng thư chưởng khế, bản toàn kê còn phải ghi:
1) tên họ, nghề nghiệp, cư sở
của những người triệu thỉnh, những người hiện diện, những người khiếm diện,
những người thất tung, chưởng khế được gọi để thay mặt cho họ, hổ giá viên và
giám định viên; và án lệnh đề cử chưởng khế cho những người thất tung và
khiếm diện cũng phải được ghi;
2) Nơi lập bản toàn kê;
3) Sự mô tả và đánh giá các đồ
vật; đồ vàng bạc phải được ghi rõ cân lượng và tuổi; tiền mặt phải được đếm và
ghi rõ từng loại;
4) Các giấy tờ sẽ được đánh số trang đầu và trang cuối sẽ được ký tắt bởi chính tay một trong các chưởng khế; nếu có sổ sách thương mãi, tình trạng của những sổ sách này phải được kiểm nhận và những tờ sẽ được đánh số và ký tắt như trên, nếu có những đoạn trắng trong những trang có chữ, những đoạn này sẽ được gạch lấp đi;
4) Các giấy tờ sẽ được đánh số trang đầu và trang cuối sẽ được ký tắt bởi chính tay một trong các chưởng khế; nếu có sổ sách thương mãi, tình trạng của những sổ sách này phải được kiểm nhận và những tờ sẽ được đánh số và ký tắt như trên, nếu có những đoạn trắng trong những trang có chữ, những đoạn này sẽ được gạch lấp đi;
5) Bản kê khai những chứng khoán;
6) Lời tuyên thệ khi hoàn tất
bản toàn kê, của những người đã giữ các đồ vật trước khi lập bản toàn kê, hay
của những người ở trong nhà có đồ vật đó, rằng họ không có đoạt thủ bất cứ vật
gì và họ cũng không nghe thấy ai trực tiếp hay gián tiếp làm như vậy.
7) Sự giao đồ vật và giấy tờ, nếu có, nơi tay người được các đương sự đồng ý lựa chọn hay được chánh án tòa sơ thẩm chỉ định nếu không có sự đồng ý của họ.
Điều thứ 537 – Mọi sự khó khăn xảy ra nhân việc gắn niêm phong, gỡ niêm phong và lập bản toàn kê sẽ do chánh án tòa sơ thẩm giải quyết bằng án lệnh cấp thẩm.
7) Sự giao đồ vật và giấy tờ, nếu có, nơi tay người được các đương sự đồng ý lựa chọn hay được chánh án tòa sơ thẩm chỉ định nếu không có sự đồng ý của họ.
Điều thứ 537 – Mọi sự khó khăn xảy ra nhân việc gắn niêm phong, gỡ niêm phong và lập bản toàn kê sẽ do chánh án tòa sơ thẩm giải quyết bằng án lệnh cấp thẩm.
CHƯƠNG V
SỰ CAN THIỆP CỦA TÒA ÁN VÀO QUYỀN CỦA
VỢ CHỒNG
Điều thứ 538 – Trong những trường hợp dân luật ấn
định phải có sự tham dự hay sự ưng thuận của một người phối ngẫu, nếu người kia
muốn xin tòa án cho phép hay cấp tư năng để thay thế vào sự tham dự hay ưng
thuận nói trên thì phải đệ đơn đến chánh án tòa sơ thẩm đển xin tòa án xét xử.
Điều thứ 539 – Nếu một người, vợ hay chồng, ở trong
tình trạng không thể bày tỏ ý định của mình được, vì những nguyên do dự liệu
trong dân luật, người kia sẽ đệ đơn lên chánh án và chứng minh các nguyên do đã
làm cho người phối ngẫu của mình không tỏ ý định được và cần có tòa án cho phép
hay cấp tư năng.
Điều thứ 540 – Nếu đơn xin phép nhắm mục đích bỏ qua
sự đối kháng hay sự khước từ của người phối ngẫu, chánh án sẽ ra án lệnh ấn
định ngày gọi người ấy đến trước phòng thẩm nghị để giải thích lý do của sự đối
kháng hay khước từ ấy.
Điều thứ 541 – Các án văn cho phép hay cấp tư năng
nói ở các điều trên, sẽ được tuyên xử tại phòng thẩm nghị, sau khi công tố viện
kết luận.
Án văn ấy ấn định rõ những điều kiện
phải tuân theo khi thi hành phán quyết, và giới hạn của sự cho phép hay cho
quyền đại diện.
Điều thứ 542 – Nếu một người, vợ hay chồng, không
làm tròn nghĩa vụ mình trong việc góp phần vào sự chi tiêu gia đình, người kia
có thể xin vị thẩm phán hòa giải cho phép làm sai áp chi phó và lãnh một phần,
do vị thẩm phán ấn định, trong số lợi tức của người phối ngẫu.
Lục sự sẽ gọi hai vợ chồng đến trước
thẩm phán hòa giải, bằng thơ bảo đảm có biên nhận, trong thơ ghi rõ đối tượng
của đơn thỉnh cầu.
Hai vợ chồng phải đích thân đến tòa,
ngoại trừ khi có sự cản trở tuyệt đối phải được chứng minh.
Án văn tuyên xử sẽ được thi hành tạm
thời mặc dầu có kháng án hay kháng cáo.
Sự tống đạt án văn ấy cho người phối
ngẫu và chon các người đệ tam bị sai áp, có hiệu quả cấp cho nguyên đơn những
số tiền được phép sai áp, khỏi phải làm thủ tục nào khác.
Lúc nào cũng có thể xin sửa đổi án
văn mặc dầu đã thành nhất định, nếu có sự thay đổi trong tình trạng của mỗi
người phối ngẫu.
CHƯƠNG THỨ VI
VỀ Ý KIẾN CỦA NHỮNG NGƯỜI THÂN THUỘC
Điều thứ 543 – Mỗi khi những quyết nghị của hội đồng
gia tộc không được nhất trí, thì ý kiến của mỗi người tham dự hội đồng sẽ được
ghi chú trong biên bản, người giám hộ, người đại diện giám hộ, người quản lý
tài sản, những hội viên hội đồng gia tộc có thể, trong những trường hợp dự định
trong Dân luật, xin tòa xét xử các quyết nghị đó. Họ sẽ đệ đơn kiện những người
đã đồng ý với quyết nghị nói trên.
Điều thứ 544 – Nếu người giám hộ hay đại nhiệm giám
hộ từ khước hay bỏ lãng việc xin duyệt hành những quyết nghị cần phải duyệt
hành, thì quá hạn mười lăm ngày sau khi có quyết nghị, một trong những hội viên
của hội đồng có thể làm việc ấy thay họ, nhưng chỉ có thể làm tám ngày sau khi
đã hối thúc người giám hộ, nhưng vô hiệu.
Điều thứ 545 – Hội viên nào trong hội đồng gia tộc
hoặc người nào đáng lẽ phải được gọi đến dự hội đồng, nếu thấy cần phải chống
lại sự duyệt hành, thì có thể can thiệt vào vụ xin duyệt hành. Họ có thể khai
sự đối kháng của họ với sự đứng xin duyệt hành bằng chứng thư ngoại tư pháp, và
nếu họ không được gọi ra tòa thì họ có thể đứng đệ tam kháng cáo chống lại án
duyệt hình.
Điều thứ 546.– Các án văn trên đây của tòa có thể bị
kháng cáo.
CHƯƠNG THỨ VII
BÁN BẤT ĐỘNG SẢN CỦA VỊ THÀNH NIÊN
Điều thứ 547 - Trừ trường hợp dân luật định khác,
chỉ có thể truyền cho bán bất động sản của vị thành niên theo như quyết nghị
của hội đồng gia tộc chỉ rõ bản chất và giá trị phỏng ước của những bất động
sản ấy.
Không cần đến quyết nghị nói trên nếu
các tài sản ấy thuộc cả về những người thành niên nữa và nếu những người này
truy sách việc bán. Sự bán sẽ làm theo thể thức nói ở chương VIII “phân sản và
cạnh mại”.
Điều thứ 548 – Khi nào cần phải có tòa án duyệt hành
quyết nghị của hội đồng gia tộc theo dân luật, tòa có thể tuyên bố sẽ bán đấu
giá hay bán thỏa thuận tùy theo trường hợp định trong luật ấy.
Trong trường hợp bán đấu giá, tòa sẽ
ấn định trong án văn duyệt hành là sẽ đem bán trước một vị thẩm phán của tòa án
tại phiên tòa đấu giá hay trước một vị chưởng khế được ủy cử để bán đấu giá.
Điều thứ 549 – Án văn truyền cho bán sẽ đặt giá cho
mỗi bất động sản đem bán và ấn định các điều kiện về việc bán. Sẽ đặt giá, hoặc
theo ý kiến những người họ hàng, hoặc theo bằng khoán, hoặc do các khế ước thuê
mướn công chính hay tư thự mà có ngày tháng xác định, và nếu không có khế ước
thuê mướn thời do sở thuế điền thổ.
Tuy nhiên, tòa án có thể tùy theo
trường hợp truyền cho đánh giá tất cả hay một phần các bất động sản.
Tùy theo sự quan trọng và bản chất
của tài sản, sự đánh giá này sẽ do một hay ba giám định viên mà tòa án ủy nhiệm
phụ trách.
Điều thứ 550 – Nếu có lệnh truyền cho đánh giá, giám
định viên, sau khi tuyên thệ trước chánh án hoặc trước một thẩm phán hòa giải
do chánh án ủy nhiệm, sẽ thảo tờ trình trong đó chỉ sơ lược những điểm làm căn
bản cho sự đánh giá khỏi cần miêu tả tỉ mỉ các tài sản sẽ bán.
Nguyên cáo tờ trình sẽ ký nạp tại
phòng lục sự tòa án. Không cấp phát bản toàn sao tờ trình này.
Điều thứ 551 – Thể thức phát mại sẽ theo như đã quy
định ở thiên V. chương II tiết 3 “sai áp bất động sản”.
CHƯƠNG THỨ VIII
PHÂN SẢN VÀ BÁN ĐẤU GIÁ ĐỂ CHIA
Điều thứ 552 – Khi nào sự phân sản phải làm tại tòa
án thời người đương sự mẫn cán nhất sẽ thỉnh cầu.
Điều thứ 553 – Người giám hộ đặc định và riêng biệt
cho mỗi vị thành niên có quyền lợi tương phản với nhau, sẽ được tuyển nhiệm
theo thể thức ấn định trong Dân luật.
Điều thứ 554 – Án văn tuyên xử về đơn xin phân sản
sẽ ủy nhiệm cùng một lượt, nếu cần, một thẩm phán và một chưởng khế hay, nếu
không có chưởng khế, một công chức để thay thế cho chưởng khế.
Nếu trong khi hành sự, thẩm phán hay
chưởng khế bị cản trở, chánh án sẽ cử người thay bằng một án lệnh chiếu đơn, án
lệnh này không thể bị kháng tố hay kháng cáo.
Điều thứ 555 – Khi tuyên xử về đơn này trong cùng
một án văn, tòa án sẽ truyền cho phân sản nếu có thể được, hay là cạnh mại
trước chưởng khế hay là trước tòa án.
Tòa án có thể khi truyền cho phân sản
hay cạnh mại, phán rằng sẽ thi hành lập tức, khỏi có sự giám định trước, dù cho
có vị thành niên trong việc kiện; trong trường hợp cạnh mại, tòa án sẽ đặt giá.
Điều thứ 556 – Khi truyền giám định, tòa án có thể
ủy nhiệm một hay là nhiều giám định viên.
Tờ trình của giám định viên sẽ trình
bày sơ lược những điểm làm căn bản cho sự đánh giá, và khỏi miêu tả tỉ mỉ các
tài sản để tương phân hay để cạnh mại.
Điều thứ 557 – Khi bán phải theo thể thức đã quy
định ở thiên V, chương II tiết 3 “Sai áp bất động sản”, và phải thêm vào điều
kiện sách:
- Tên họ, nơi trú ngụ và nghề
nghiệp người xin phát mãi;
- Tên họ, nơi trú ngụ và nghề nghiệp những người cộng chủ bất động sản phát mãi.
- Tên họ, nơi trú ngụ và nghề nghiệp những người cộng chủ bất động sản phát mãi.
Điều thứ 558 – Tòa án sẽ giải quyết những điều khó
khăn xảy ra với điều kiện sách.
Không thể kháng cáo án văn xử việc
này.
Điều thứ 559 – Trong trường hợp phân chia hiện vật
giám định viên sẽ lập những phần trị giá bằng nhau và sẽ cấp bằng cách rút thăm
nếu có sự bất đồng ý giữa các đương sự.
Phải xin tòa án duyệt hành mỗi khi có
sự tranh chấp về sự lập thành hay sự cấp dữ các phần.
CHƯƠNG THỨ IX
I – QUẢN TRỊ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI SUY
ĐOÁN THẤT TUNG
Điều thứ 560 – Khi cần phải quản trị toàn thể hay
một phần tài sản của một người suy đoán thất tung theo như dân luật quy định về
sự thất tung. Những người có quyền lợi có thể đệ đơn đến chánh án tòa sơ thẩm
dân sự nơi cư sở sau cùng hay nếu không có cư sở, thời nơi trú sở sau cùng của
người suy đoán thất tung, để xin chỉ định một quản trị viên tạm thời.
Điều thứ 561 – Đơn này sẽ được thông tri cho công tố
viên để điều tra và kết luận.
Điều thứ 562 – Trích lục án văn chỉ định quản trị
viên tạm thời sẽ đăng vào một tờ báo sẽ do án văn ấy chỉ định.
Điều thứ 563 – Người phối ngẫu của người suy đoán
thất tung, các người thừa kế và các chủ nợ của y, có thể xin thâu hồi án văn
nói trên.
Điều thứ 564 – Trong mọi trường hợp, chức vụ của
quản trị viên tạm thời sẽ chấm dứt khi người suy đoán thất tung trở về; sự chấm
dứt ấy bắt đầu từ ngày sự trở về được tống đạt cho quản trị viên bằng văn thơ
ngoại tư pháp.
Điều thứ 565 – chức vụ ấy cũng chấm dứt khi có đủ
bằng chứng là người suy đoán thất tung đã mệnh một.
Điều thứ 566 – Chức vụ ấy cũng chấm dứt khi những
tài sản đã được phép doãn chấp, và sự doãn chấp ấy đã được lục tống hợp lệ cho
đương sự.
Điều thứ 567 – Trong mọi trường hợp, quản trị viên
tạm thời phải khai trình kế toán về việc quản lý của mình.
II – DOÃN CHẤP TÀI SẢN CỦA NGƯỜI THẤT
TUNG
Điều thứ 568 – Việc doãn chấp có thể được tuyên phán
ngay trong án văn tuyên bố thất tung hay trong một án văn sau.
Điều thứ 569 – Sự thất tung sẽ được tuyên bố theo
những điều kiện và thể thức ấn định trong dân luật.
Điều thứ 570 – Việc doãn chấp có thể tạm thời hay
vinh viễn, chỉ có thể được doãn chấp vĩnh viễn sau khi đã quá thời hạn ấn
định trong Dân luật, kể từ ngày có án văn tuyên bố thất tung, hay một trăm năm
kể từ ngày sanh người thất tung.
Điều thứ 571 – Án văn về doãn chấp sẽ được tuyên xử
sau sự điều tra và kết luận của công tố viên cũng như trong việc quản trị
tam thời.
Điều thứ 572 – Phải đăng trích lục án văn về doãn
chấp vào một tờ báo do án ấy ấn định.
Điều thứ 573 – Tất cả các người thừa kế của người
thất tung đều có thể xin thâu hồi án văn ấy.
CHƯƠNG THỨ X
QUẢN-TRỊ-DI-SẢN-VÔ-CHỦ
Điều thứ 574 – Sau khi mãn hạn luật định mà không ai
ra đòi nhận di sản, không biết ai là thừa kế, hoặc có biết nhưng các người thừa
kế này đã khước từ di sản nếu họ có quyền ấy, thì di sản sẽ kể như vô chủ; một
quản tài sẽ được chỉ định cho di sản đó, chiếu theo thể thức ấn định trong dân
luật và các luật lệ hiện hành.
Điều thứ 575 – Trước hết, người quản tài kiểm chứng
tình trạng di sản bằng một bản toàn kê tài sản, nếu chưa làm bản ấy, và bán các
động sản theo thể thức luật lệ quy định.
Điều thứ 576 – Các bất động sản chỉ có thể bán sau
khi được án văn cho phép, án văn này sẽ tuyên xử khi công tố viện đã kết luận.
Án văn sẽ đặt giá các tài sản, một giám định viên có thể được tuyển nhiệm để
đánh giá, nếu cần.
CHƯƠNG THỨ XI
NHIÊM VỤ CHÁNH TỐ VÀ QUYỀN HẠN CỦA
CÔNG TỐ VIỆN
Điều thứ 577 – Về dân sự công tố viện tự động hành
động trong các trường hợp luật định.
Công tố viện trông nom việc thi hành
các luật lễ, các án văn, công tố viện tự động truy sách việc thi hành ấy về
những khoản liên quan đến trật tự công cộng.
Để làm tròn nhiệm vụ, công tố viện có
quyền đòi phòng lục sự chuyển giao mọi hồ sơ, án lệnh, án văn, phúc quyết để
tra cứ và sao lục nếu xét cần.
CHƯƠNG THỨ XII
VIỆC CẤP PHÁT BẢN TOÀN SAO MỘT VĂN
THƯ
Điều thứ 578 – Chưởng khế hoặc người thụ thác công
nào khác từ khước cấp bản toàn sao, bản sao một văn thư cho những đương sự trực
tiếp đứng tên trong đó hoặc những thừa kế, thụ quyền của họ, sẽ bị gọi ra tòa
ngắn hạn, do đơn khiếu của đương sự và sự cho phép của chánh tòa sơ thẩm, vụ
tranh tụng sẽ được xử ngay và án văn được thi hành mặc dù có kháng tố hay kháng
cáo.
Điều thứ 579 – Trong trường hợp xin cấp phát bản sao
một văn thư không trước bạ hay một văn thư chưa hoàn tất, đương sự nói trên sẽ
nộp đơn tại chánh án tòa sơ thẩm.
Chánh án ra án lệnh dưới đơn buộc
người có trách nhiệm phải cấp phát, nếu không trái với luật trước ba, án lệnh
sẽ được ghi chép dưới chót bản sao văn thư được cấp phát.
Nếu chưởng khế hay người thụ thác
khước từ việc cấp phát, đương sự sẽ xin chánh án xử cấp thẩm.
Điều thứ 580 – Trong một vụ kiện đang tiến hành,
người nào muốn xin khảo tra để được cấp phát bản toàn sao, bản sao hay trích
lục một văn thư trong đó họ không phải là đương sự, phải khai xin tòa lên án
cho phép, án văn sẽ được thi hành ngay mặc dù có kháng tố hay kháng cáo. Tòa có
thẩm quyền là tòa hộ đang xét chánh vụ hay là tòa sơ thẩm nơi để nguyên cáo văn
thư nếu chánh vụ diễn tiến trước tòa đặc thẩm.
Chưởng khế hay người thụ thác công
lập biên bản khảo tra hay kiểm chiếu và cấp phát bản toàn sao, bản sao hay
trích lục. Trong trường hợp tòa cử một thẩm phán hay một chưởng khế khác để thi
hành nhiệm vụ khảo tra thì những người ấy sẽ lập biên bản khảo tra hay kiểm
chiếu.
Điều thứ 581 – Trong mọi trường hợp, các đương sự có
thể dự kiến việc lập biên bản và có quyền xin ghi vào đó những khai nại cần
thiết.
Điều thứ 582 – Nếu những tổn phí về nguyên cảo văn
thư chưa được thanh toán cho người thụ khác người này có thể từ khước cấp phát
bản sao cho đến khi các tổn phí ấy được thanh toán hết, kể cả tổn phí về việc
cấp phát bản sao.
Điều thứ 583 – Các đương sự có thể kiểm chiếu bản
toàn sao, bản sao với nguyên cảo do người thụ thác đọc. nếu họ cho rằng bản
toàn sao, hay bản sao không đúng với nguyên cảo, họ có thể xin chánh án kiểm
chiếu lại, vào ngày giờ được định trong biên bản, người thụ thác phải
mang nguyên cáo trình chánh án và vị này sẽ kiểm chiếu.
Tổn phí về biên bản, tiền vãng phản
của người thụ thác phải được người ứng thỉnh cầu ứng trước.
Điều thứ 584 – Các lục sự và các người thụ thác các
sổ sách công phải cấp phát bản toàn sao, phóng ảnh, bản sao hay trích lục các
văn thư ghi trong các sổ sách ấy mà khỏi phải có lệnh của tòa án, các tổn phí
về việc cấp phát sẽ do người đứng xin phải chịu. nếu từ khước cấp phát, những
người thụ thác nói trên sẽ phải trả án phí vụ tranh tụng và có thể cả tiền bồ
thường thiệt hại nữa.
ĐIỀU KHOẢN TỔNG QUÁT
Điều thứ 585 – Tất cả những sự cao tri, tống đạt hay
chấp hành, dự liệu trong bộ luật này đều được thực hiện do thừa phát lại hoặc
viên chức hành chánh hữu trách.
Điều thứ 586 – Không có sự tống đạt hay chấp hành
nào có thể làm trước bảy giờ sang và sau bảy giờ chiều hay trong ba ngày chót
tháng chạp và bảy ngày đầu tiên tháng giêng âm lịch, cùng là trong những ngày
lễ Quốc Khánh và Lao Động, trừ phi được chánh án cho phép vì có sự nguy tai
diện tiền.
Điều thứ 587 – Tất cả các thời hạn thủ tục dự liệu
trong bộ luật này đều là thời hạn tròn, ngày làm khởi tiến thời hạn và ngày mãn
hạn đều sẽ không tính.
Đối với đương sự ở xa, nếu không có
điều luật dự liệu khác, tất cả các thời hạn, sẽ được gia thêm một ngày về mỗi
năm mươi (50) cấy số, những khoản dưới bốn mươi (40) cây số sẽ không được tính
và những khoản từ bốn mươi (40) cây số trở lên sẽ làm gia thêm một ngày.
Nếu ngày chót của thời hạn là một
ngày nghỉ lễ hay ngày chủ nhật, thời hạn sẽ triển khoáng đến ngày làm việc trở
lại.
Điều thứ 588 – Trong trường hợp cần chấp nhận một sự
tuyên thệ, thực hiện việc chấp cung đương sự hay nhân chứng, hoặc chỉ định giám
định viên, nói một cách tổng quát, khi cần thực hiện mọi biện pháp đã tuyên án
trong một án văn, chánh án có thể ủy thác cho một thẩm phán trong quản hạt tòa
hoặc nếu các đương sự hoặc nơi tranh chấp ở ngoài quản hạt, ủy thác cho chánh
án sở tại. với năng quyền chuyển ủy.
Điều thứ 589 – Tòa án tùy theo sự hệ trọng của mỗi
trường hợp, có thể theo thỉnh cầu của đương sự hay tự ý, hoặc truyền xóa bỏ
những lời lẽ có tánh cách mạ lỵ, lăng nhục hay phỉ bang và kết phạt người có
lỗi phải trả bồi thường thiệt hại, hoặc chỉ cảnh cáo người này.
Điều thứ 590 – Tất cả những thể thức hay quy khoản
ấn định trong Bộ luật này đề phải được tuân theo nếu không sẽ vô hiệu.
Khước biện vô hiệu, bất cứ trong
trường hợp nào, bất cứ về loại nào, không thể do tòa án tự ý tuyên phán và sẽ
bị bao yểm nếu không được đương sự nêu lên trước mọi kháng biện hay khước biện
khác, trừ ra khước biện ngoại kiều án quỹ và khước biện vô thẩm quyền.
Khước biện ngoại kều án quỹ phải được
nêu lên trước nhất.
Khước biện vô thẩm quyền tương đối
phải đươc nêu lên sau khước biện trên và trước mọi khước biện khác.
Khước biện vô hiệu cùng tất cả khước
biện khác đều phải nêu lên một lượt, trước khi tranh luận về nội dung, nếu
không sẽ bị bao yểm.
Không một khước biện nào còn cón thể
được chấp nhận sau khi đã có một án văn xử về một khước biện.
Tuy nhiên, những kháng biện hay khước
biện về sự vô thẩm quyền đối vật, về sự thiếu tư cách, thiếu năng lực, thiếu
lợi ích, đều có thể được viện dẫn trong bất cứ giai đoạn nào của thủ tục, và riêng
về sự vô thẩm quyền đối vật, tòa án có quyền tự ý nêu lên.
Điều thứ 591 – Kể từ ngày ban hành Bộ luật dân sự và
thương sự tố tụng này, những bản văn và những điều luật trước trái với Bộ luật
này đều được bãi bỏ, nhất là;
1) Nghị định ngày 16-3-1910;
2) Bộ trung kỳ hộ sự và thượng
sự tố tụng pháp;
3) Bộ luật dân sự thương sự tố
tụng trước các tòa Nam án Bắc kỳ.
Đối với những trường hợp không dự
liệu trong Bộ dân sự và thương sự tố tụng này, và được luật lệ riêng biệt quy
định, tòa án sẽ tiếp tục áp dụng các luật lệ ấy.
Comments
Post a Comment