QUYỂN V
Thủ tục
chấp hành
THIÊN THỨ NHẤT
Chấp hành án hình
Điều thứ 669 - Công tố viện và các đương sự
đảm nhiệm việc chấp hành án hình trong phạm vi quyền hạn và quyền lợi của mỗi
bên.
Tuy nhiên, viên chức thâu thuế, nhân
danh biện lý, phụ trách việc truy thâu tiền phạt và việc tịch thâu.
Để thi hành nhiệm vụ công tố viện có
quyền yêu cầu chánh lục sự bên xử án thông tri nguyên cáo mọi án văn, phúc
quyết và án lệnh.
Điều thứ 670 - Công tố viện yêu cầu chấp hành
án văn sau khi phán quyết đã thành nhất định.
Tuy nhiên, thời hạn kháng cáo của
chưởng lý, dự liệu nơi các điều 484, 522 và 524, không có hiệu lực đình chỉ
việc chấp hành.
Biện lý và chưởng lý có quyền trực
tiếp triệu dụng công lực để chấp hành án văn.
Điều thứ 671 - Những đới tranh có tính cách
tố tụng liên quan đến việc chấp hành được xét xử do tòa vi cảnh, tòa sơ thẩm
hay tòa thượng thẩm đã tuyên phán quyết cơ quan tài phán đã tuyên phán quyết
cũng có thể cải chính những sai lầm thuần túy vật chất trong án văn.
Việc cải chính phúc quyết tòa đại
hình và việc xét xử đới tranh ra trong khi chấp hành án văn này thuộc thẩm
quyền phòng luận tội.
Điều thứ 672 - Theo lời yêu cầu của công tố
viện hay của đương sự, tòa sẽ quyết định trong phòng thẩm nghị, sau khi công tố
viện, luật sư hay đương sự kết luận, trừ trường hợp dự liệu nơi điều 673.
Tòa có thể truyền đình chỉ việc chấp
hành án văn đương tranh nại.
Án văn xử việc đới tranh phải được
tống đạt cho các đương sự theo lời yêu cầu của công tố viện.
Điều thứ 673 - Trong trường hợp cần lấy cung
tội nhân bị giam, tòa án thụ lý nội vụ có thể ủy thác chánh án tòa gần nơi giam
hơn hết để hỏi cung.
Chánh án thụ ủy có năng quyền chuyển
ủy cho một thẩm phán đồng tòa.
Điều thứ 674 - Công tố viện phải cáo tri Tổng
trưởng tư pháp ngay khi án văn kết phạt tử hình đã thành nhất định.
Án tử hình chỉ được chấp hành
sau khi đơn xin ân xá bị bác.
Nếu tử tội muốn khai điều chi, một
trong những thẩm phán chứng kiến hành quyết, có lục sự phụ tá, sẽ tiếp nhận lời
khai này.
THIÊN THỨ II
Tống giam
Điều thứ 675 - Bị can bị giam cứu được giữ
nơi trại tạm giam.
Tại nơi đặt trụ sở một tòa sơ thẩm,
thượng thẩm và đại hình đều có một trại giam, trừ trường hợp có sắc lệnh của
Thủ tướng Chánh phủ định khác. Trong trường hợp sau này, sắc lệnh của Thủ tướng
phải chỉ định trại tạm giam để giam giữ bị can thống thuộc các cơ quan tài phán
liên hệ.
Điều thứ 676 - Dự thẩm, chánh thẩm phòng luận
tội, chánh thẩm tòa đại hình, cũng như biện lý và chưởng lý có thể truyền cho
trại giam thi hành những chỉ thị cần thiết cho việc thẩm vấn hay xét xử.
Điều thứ 677 - Bị can, bị giam cứu được giam
riêng mỗi người một nơi, thoáng khí, hợp vệ sinh ngày cũng như đêm Nguyên tắc
trên chỉ được tạm ngưng áp dụng nếu trại tạm giam không đủ chỗ hay nhất thời có
nhiều người bị giam cứu, hoặc trong trường hợp họ xin được phép làm việc trong
trại tạm giam mà không thể tổ chức công việc làm cho riêng từng người.
Để bị can có thể xử dụng quyền bào
chữa họ được phép tiếp xúc với bên ngoài, miễn là kỷ luật và an ninh của trại
được tôn trọng.
CHƯƠNG THỨ II
Thi hành án phạt giam
Điều thứ 678 - Tội nhân bị kết phạt cấm cố
hoặc khổ sai hữu hạn hay chung thân sẽ thụ hình tại trung tâm cải huấn được chỉ
định để tiếp nhận họ. Tội nhân bị phạt giam trên một (1) năm hay bị nhiều hình
phạt tổng cộng trên một (1) năm mà hình phạt, hay hình phạt sau cùng đã trở thành
nhất định cũng thụ hình tại trung tâm cải huấn được chỉ định để tiếp nhận họ.
Tội nhân bị hình phạt giam
đúng một (1) năm hay dưới một (1) năm thụ hình trong trại giáo hòa.
Tội nhận bị phạt giam vi cảnh thụ
hình trong một khu riêng biệt của trại tạm giam.
Một nơi có thể vừa là trại tạm giam
vừa là trại giao hóa.
Tội nhân bị phạt lưu xứ thụ hình tại
trung tâm cải huấn được chỉ định để tiếp nhận họ.
Điều thứ 679 - Tội nhân thu hình tại trung
tâm cải huấn được phân phối tùy theo hình phạt nặng hay nhẹ, tuổi tác và tình
trạng sức khỏe của họ.
Tội nhân đau ốm hay có bệnh thần
kinh phải được gởi đến các y viện đặc biệt để điều trị.
Người bệnh tật, người già yếu trên
năm mươi (50) tuổi vị thành niên dưới mười tám (18) tuổi phụ nữ phải được giam
ở trại riêng, thoáng khí, có đủ điều kiện vệ sinh cần thiết, hợp với tình trạng
sức khỏe và tuổi tác của họ.
Điều thứ 680 - Tội nhân thụ hình tại trại
giáo hóa hay trung tâm cải huấn bị giam mỗi người một nơi, thoáng khí, hợp vệ
sinh, ngày cũng như đêm, và nếu cần, chỉ có thể giam riêng biệt ban đêm mà
thôi.
Nguyên tắc trên, chỉ được tạm ngưng
áp dụng trong một thời gian ngắn nếu trại trừng giới hay trung tâm cải huấn
không đủ chỗ hay nhất thời có nhiều tội nhân hoặc vì lý do cần thiết cho sự tổ
chức công việc làm của tội nhân.
Điều thứ 681 - Tội nhân bị phạt giam về
thường tội, dù là trọng tội hay khinh tội, bắt buộc phải làm việc.
Lợi tức thâu hoạch được do công việc
làm của tội nhân dùng để đài thọ các khoản chi tiêu chung cho trung tâm cải
huấn, trả ngân hình cho công khố hay tiền bồi thường cho dân sự nguyên cáo,
thành lập một quỹ trừ bị dành cho tội nhân khi mãn án, và một khoản tích kim
dành cho tội nhân chi tiêu trong khi bị giam.
Một bản văn lập quy sẽ ấn định thể
thức xử dụng lợi tức trên
CHƯƠNG THỨ III
Điều khoản chung cho các trung tâm
cải huấn
Điều thứ 682 - Mỗi trung tâm cải huấn phải có
một cuốn sổ đính bài do biện lý ký tên và ghi số trên mỗi trang.
Nhân viên phụ trách việc thi hành
các án văn kết phạt, mệnh lệnh câu lưu, trát tống giam hay trát bắt giam, trát
dẫn giải nếu có tạm giam sau đó, hoặc lệnh bắt giam lập theo thể thức hợp lệ,
phải ghi vào cuốn sổ đính bài văn kiện được chấp hành. Trước khi giao người áp
giải cho trung tâm cải huấn, viên quản đốc trung tâm phải lập ngay tờ giao nạp
và ký tên cùng với nhân viên thi hành. Bản sao của tờ giao nạp có chữ ký của
quản đốc trung tâm cải huấn được trao cho nhân viên thi hành.
Nếu người bị kết phạt tự ý thi hành
án văn, quản đốc trung tâm cải huấn sao lại trên sổ đính bài bản trích lục án
văn kết phạt do biện lý hay chưởng lý chuyển đến.
Trong mọi trường hợp, quản đốc trung
tâm cải huấn phải báo cho chưởng lý hay biện lý biết mỗi khi có giam giữ.
Sổ đính bài cũng ghi ngày phóng
thích người bị giam đối diện với văn kiện giao nạp, và nếu cần, quyết định hay
điều luật cho phép phóng thích.
Điều thứ 683 - Mọi hình thức tra tấn, đánh
đập bị can, tù nhân, lợi dụng bị can, tù nhân đều bị nghiêm cấm. Những kẻ phạm
điều luật này sẽ bị truy tố theo luật. Hình phạt tối đa phải được áp dụng.
Điều thứ 684 - Những tù nhân chánh trị được
hưởng quy chế đặc biệt theo đúng quy tắc đã được đề ra trong bản tuyên ngôn
nhân quyền của liên hiệp quốc.
Điều thứ 685 - Nhân viên trung tâm cải huấn
chỉ có thể tiếp nhận hoặc giam giữ một người nào khi có án văn kết phạt, mệnh
lệnh câu giữ, trát tống giam hay trát bắt giam, trát dẫn giải nếu cần phải tạm
giam sau đó, hoặc lệnh bắt giam lập theo thể thức hợp lệ và phải ghi chú vào sổ
đính bài những chi tiết nói ở điều trên, nếu vi phạm, sẽ bị truy tố về tội giam
giữ trái phép.
Điều thứ 686 - Nếu người bị giam giữ hăm dọa,
mạ lỵ hay hành hung kẻ khác, hoặc vi phạm kỷ luật của trung tâm, y có thể bị
giam riêng biệt trong những phòng kỷ luật hoặc phải chịu những biện pháp cưõng
bách trong trường hợp y có cử chỉ bạo hành quá đáng, không kể việc y có thể bị
truy tố về những hành vi ấy.
Điều thứ 687 - Dự thẩm, chánh thẩm phòng
luận tội, biện lý và chưởng lý có bổn phận khám xét các trung tâm cải huấn.
Điều thứ 688 - Một bản văn lập quy sẽ ấn
định thể thức kiểm soát các trung tâm cải huấn và những điều kiện để cho một số
người có thể vào thăm những người bị giam.
Điều thứ 689 - Một bản văn lập quy sẽ ấn định
tổ chức và điều hành của trung tâm cải huấn trong tinh thần bảo vệ nhân phẩm và
sức khỏe của tù nhân.
Chế độ cải huấn phải được thiết lập
với mục tiêu cải tạo và hoàn lương tù nhân.
THIÊN THỨ III
Huyền án
Điều thứ 690 - Trong trường hợp tuyên án phạt
giam hay phạt vạ, tòa có thể truyền cho hưởng án treo nếu người bị án chưa hề
bị phạt giam về tội đại hình hay tiểu hình trên hai (2) tháng.
Điều thứ 691 - Sự kết phạt được coi như hủy
bỏ nếu trong hạn năm (5) năm kể từ ngày tuyên án, người can án không bị truy tố
và không bị kết phạt giam hay một hình phạt nặng hơn về thường tội.
Nếu trong hạn năm (5) năm, người can
án lại bụ truy tố và bị kết phạt giam hay một hình phạt nặng hơn về thưởng tội,
thì hai hình phạt sẽ được liên tiếp thi hành, không được trùng nhập.
Điều thứ 692 - Việc đình chỉ thi hành hình
phạt không áp dụng cho án phí tụng lệ và tiền bồi thường, cùng những phụ
hình và vô năng cách, hậu quả trực tiếp của sự kết phạt.
Tuy nhiên, các phụ hình và vô năng
cách sẽ hết hiệu lực kể từ ngày sự kết phạt coi như bị hủy bỏ chiếu điều 691.
Điều thứ 693 - Chánh thẩm tòa đại hình, tòa
thượng thẩm hay tòa sơ thẩm sau khi truyền cho huyền án phải báo cho người bị
án nếu trong hạn năm (5) năm y bị kết phạt một lần nữa, thì hai hình phạt sẽ
được liên tiếp thi hành, không được trùng nhập và bị can sẽ bị xét xử theo
trường hợp tái phạm được dự liệu trong bộ hình luật.
THIÊN THỨ IV
Kiểm nhận căn cước của người bị kết
phạt
Điều thứ 694 - Nếu bị bắt lại sau khi đào tẩu
hoặc bất cứ vì lý do nào khác mà căn cước của người bị kết phạt bị dị nghị, sự
tranh chấp này sẽ được thanh quyết theo các qui tắc về các đới tranh nhân khi
chấp hành án văn. Tuy nhiên, nội vụ phải đưa ra phiên tòa công khai.
Nếu sự tranh chấp được nêu lên trong
hoặc nhân một cuộc truy tố khác, tòa án thụ lý vụ kiện này sẽ thanh quyết vấn
đề.
THIÊN THỨ V
Câu thúc thân thể
Điều thứ 695 - Khi tòa án xét xử một tội phạm
không có tính cách chánh trị và không tuyên hình phạt chung thân, nếu phạt vạ,
buộc phải trả án phí tụng lệ hiặc mọi khoản tiền cho công khố, tòa sẽ ấn định
thời gian câu phúc thân thể theo giới hạn sau đây, trong trường hợp hình phạt
không được thi hành.
Thời gian câu thúc thân thể để bảo
đảm việc thâu hồi nhiều trái khoản, sẽ được ấn định theo tổng số các khoản tiền
phạt.
Điều thứ 696 - Thời gian câu thúc thân thể
được ấn định như sau:
- Từ hai (2) ngày đến mười (10) ngày
nếu số tiền phạt vạ hoặc số bạc tòa tuyên phải trả không quá sáu trăm đồng
(600$00);
- Từ sáu (6) ngày đến hai mươi (20)
ngày nếu số tiền phạt vạ hoặc số bạc tòa tuyên phải trả trên sáu trăm đồng
(600$00) và không quá ba ngàn đồng (3.000$00);
- Từ mười hai (12) ngày đến bốn mươi
(40) ngày nếu số tiền phạt vạ hoặc số bạc tọa tòa tuyên phải trả trên ba ngàn
đồng (3.000$00) và không quá năm ngàn đồng (5.000$00);
- Từ một (1) tháng đến ba (3) tháng
nếu số tiền phạt vạ hoặc số bạc tòa tuyên phải trả trên năm ngàn đồng
(5.000$00) và không quá mười hai ngàn năm trăm đồng (12.500$00);
- Từ hai (2) tháng đến sáu (6) tháng
nếu số tiền phạt vạ hoặc số bạc tòa tuyên phải trả trên mười hai ngàn năm trăm
đồng (12.500$00);
- Từ bốn (4) tháng đến mười (10)
tháng nếu số tiền phạt vạ hoặc số bạc tòa tuyên phải trả trên năm mươi ngàn
đồng (50.000$00) và không quá hai trăm năm mươi ngàn đồng (250.00$00);
- Từ tám (8) tháng đến mười tám (18)
tháng nếu số tiền phạt vạ hoặc số bạc tòa tuyên phải trả trên hai trăm năm mươi
ngàn đồng (250.000$00);
- Từ một (1) năm đến hai (2) năm nếu
quá năm trăm ngàn đồng (500.000$00).
Điều thứ 697 - Không được câu thúc thân thể
người chưa đủ mười tám (18) tuổi lúc xảy ra sự kiện bị truy tố và người trên
sáu mươi (60) tuổi lúc bị án.
Đối với người trên năm mươi lăm (55)
tuổi lúc bị án, thời hạn câu thúc thân thể sẽ được giảm phân nửa không kể việc
áp dụng điều khoản sau đây.
Điều thứ 698 - Thời hạn câu thúc thân thể
những người bị án mà vô tư lực cũng bị giảm phân nửa, nhưng không thể dưới hai
mươi bốn (24) giờ, nếu họ xuất trình được những văn kiện sau đây để chứng minh
họ vô tư lực:
- Chứng chỉ của viên chức thâu thuế
nơi cư sở chứng nhận họ không bị đánh thuế;
- Chứng chỉ của nhà chức trách hành
chánh hay cảnh sát nơi cư trú.
Điều thứ 699 - Việc câu thúc thân thể không
được thi hành cùng một lúc đối với chồng và vợ dù để truy thâu những khoản tiền
phạt khác nhau.
Điều thứ 700 - Năm (5) ngày sau khi tổng đạt
bách thúc trạng cho người bị án treo lời yêu cầu của bên truy tố, mới được thi
hành việc câu thúc thân thể.
Trong trường hợp án văn kết phạt
không được tống đạt cho người thiếu nợ, trích lục án văn có ghi tên các đương
sự và chủ văn bản án sẽ được tính theo bách thúc trạng.
Khi được trình tờ tống đạt bách thúc
trạng và theo lời yêu cầu của bên truy thu, biện lý sẽ ra lệnh triệu dụng cần
thiết cho nhân viên công lực và cho những viên chức đảm nhiệm việc chấp hành
mệnh lệnh của tòa án. Lệnh câu thúc thân thể chỉ có hiệu lực cho đến khi mãn
hạn thời tiêu hình phạt. Nếu hình phạt đã bị thời tiêu, thì không thể câu thúc
thân thể, trừ trường hợp đã có lệnh câu thúc hay việc câu thúc thân thể đương
hành.
Nếu người thiếu nợ đang bị giam,
lệnh câu thúc được thi hành ngay sau khi tống đạt bách thúc trạng.
Khi bách thúc trạng đã quá một (1)
năm mà chưa có lệnh câu thúc thân thể, thì phải lập bách thúc trạng khác.
Điều thứ 701 - Những qui tắc về việc thi
hành trát của tòa án dự liệu nơi điều 118 và 125 được áp dụng cho việc câu thúc
thân thể, ngoại trừ đoạn quy chiếu điều 126 và 127 khoản 1 và 2.
Điều thứ 702 - Nếu người nợ bị giam yêu cầu
được xét xử khẩn cấp, y được dẫn ngay đến trước chánh án tòa sơ thẩm nơi y bị
bắt. Chánh án sẽ xử cấp thẩm, trừ trường hợp cần phải đình hoãn để xét xử theo
thể thức dự liệu nơi điều 671 và 672.
Người thiếu nợ bị bắt hay có lệnh
câu thúc thân thể cũng được quyền này, y sẽ được dẫn liền đến trước chánh án
tòa sơ thẩm nơi y bị giam.
Điều thứ 703 - Nếu người thiếu nợ bị bắt
không yêu cầu được xét xử khẩn cấp hay trong trường hợp có cấp thẩm mà chánh án
bác lời khiếu nại của đương sự, sẽ bị câu thúc theo thể thức về việc thi hành
án phạt giam.
Điều thứ 704 - Người bị câu thúc thân thể bị
giam tại một khu riêng biệt trong trại tạm giam.
Tuy nhiên, nếu người thiếu nợ bị
lệnh câu thúc thân thể đang thụ hình một án phạt giam, y sẽ bị giữ tại trung
tâm cải huấn cho đến hết thời hạn câu thúc thân thể, sau ngày y được phóng
thích hay được phóng thích có điều kiện.
Điều thứ 705 - Để ngăn ngừa hoặc chấm dứt hậu
quả của sự câu thúc thân thể, người thiếu nợ có thể thánh toán món nợ, hoặc ký
quỹ một số tiền đầy đủ để trả nợ hay để cùng một người bảo chứng được xét là
xứng đáng và hữu hiệu.
Người bảo chứng phải được trưởng ty ngân
khố nhận; nếu có tranh chấp, chánh án sở tại sẽ quyết định về tư cách của người
này theo thủ tục khẩn cấp.
Người bảo chứng phải trả tiền thay
người thiếu nợ trong hạn một tháng bằng không sẽ bị ngân khố truy tố để đòi nợ.
Nếu tổng số món nợ không được thanh
toán đầy đủ, ngân khố có thể yêu cầu câu thúc thân thể đối với số nợ còn lại,
trừ trường hợp dự liệu nơi điều 706.
Điều thứ 706 - Nếu đã câu thúc thân thể để
đòi một món nợ và dù cho vì nguyên nhân nào, biện pháp này đã mãn kết, thì
không thể xin câu thúc một lần nữa đối với món nợ ấy, cũng như đối với những số
tiền đã được tuyên trước ngày thi hành câu thúc thân thể, trừ khi nào thời hạn
câu thúc tính theo tổng số các khoản tiền phạt dài hơn thời hạn đã thực hiện,
trong trường hợp đó, thời hạn câu thúc trước được khấu trừ vào thời hạn mới.
Điều thứ 707 - Người thiếu nợ bị câu thúc
thân thể phải theo chế độ cải huấn áp dụng cho tội nhân, nhưng không bị bắt
buộc làm việc.
Điều thứ 708 - Sự câu thúc thân thể không có
hiệu lực miễn trái.
THIÊN THỨ VI
Thời tiêu hình phạt
Điều thứ 709 - Thời tiêu hình phạt về tội đại
hình là hai mươi (20) năm kể từ ngày phán quyết đã thành nhất định.
Thời tiêu hình phạt về tội tiểu hình
là năm (5) năm kể từ ngày án văn đã thành nhất định.
Thời tiêu hình phạt về tội vi cảnh là
hai (2) năm. Tuy nhiên hình phạt về tội vi cảnh liên hệ với tội tiểu hình chỉ
bị thời tiêu sau hạn năm (5) năm.
Điều thứ 710 - Trong mọi trường hợp, đơn xin
hủy án của người bị kết án khuyết tịch về tội đại hình hoặc tiểu hình bất khả
chấp thẩm nếu hình phạt đã bị thời tiêu.
Điều thứ 711 - Những khoản tiền phạt dân sự
tuyên xử do án văn đã thành nhất định về việc đại hình, tiểu hình hay vi cảnh
bị thời tiêu theo quy tắc của Bộ dân luật.
ĐIỀU KHOẢN TỔNG QUÁT
Điều thứ 712 - Không có sự tống đạt hay chấp
hành nào có thể làm trước sáu (6) giờ sáng và sau tám (8) giờ chiều hoặc trong
ba (3) ngày chót tháng chạp và bảy (7) ngày đầu tháng giêng âm lịch, cũng là
trong những ngày lễ Quốc khánh và lao động, trừ phi được chưởng lý tòa thượng
thẩm cho phép vì có sự nguy tai diện tiền.
Điều thứ 713 - Ngoại trừ các vụ tiểu hình quả
tang, không vụ kiện hình sự nào được đăng đường để xét xử vào năm (5) ngày chót
tháng chạp và tám (8) ngày đầu tháng giêng âm lịch.
Tuy nhiên, trong thời gian này,
phòng luận tội, phòng thẩm nghị của tòa sơ thẩm và của tòa thượng thẩm vẫn tiếp
tục thẩm định về đơn xin tại ngoại của các bị can, nếu có.
Điều thứ 714 - Tất cả các thời hạn thủ tục dự
liệu trong bộ luật này điều là thời hạn tròn; ngày khởi lưu thời hạn và ngày
mãn hạn sẽ không tính.
Nếu ngày chót của thời hạn là ngày
nghỉ lễ hay ngày chúa nhật, thời hạn sẽ triển khoáng đến ngày làm việc trở lại.
Điều thứ 715 - Trừ trường hợp bị giam giữ lại
hợp lệ như định trong điều 685 về tội trạng nào khác, người bị giam giữ phải
được quản đốc trung tâm cải huấn phóng thích ngay khi nhận được lệnh phóng
thích của biện lý hoặc ủy viên Chánh phủ tòa án đặc thẩm, chấp hành phán quyết
cho tại ngoại, miễn tố, tha bổng hoặc miễn nghi của dự thẩm, phòng luận tội, cơ
quan tài phán bất kể thường tụng hay đặc thẩm.
Điều thứ 716 - Vi phạm nghiêm lệnh ấn định
nơi điều 715, quản đốc trung tâm cải huấn sẽ bị truy tố về tội giam cầm trái
phép.
Điều thứ 717 - Đối với vụ phạm pháp, dù quả
tang hay không, thụ lý hồ sơ có người bị dẫn trình, biện lý phải thanh quyết
trong thời hạn bốn mươi tám (48) giờ.
Vi phạm điều luật này, biện lý có
thể bị truy tố về tội giam cầm trái phép, chưa kể chế tài về kỷ luật.
Điều thứ 718 - Bất cứ ai được biết có người
bị bắt bớ, giam giữ mà không có mệnh lệnh hợp pháp của cơ quan có thẩm quyền
hoặc bất cứ ai được biết có người bị giam giữ tại nơi không phải cơ sở theo
luật định để giam giữ, đều có nghĩa vụ phải cấp thời thông báo cho biện lý,
hoặc chưởng lý tòa thượng thẩm.
Điều thứ 719 - Ngay khi được báo cáo như
trên, thẩm phán công tố phải cấp thời thân đáo trường sở và phải ra lệnh phóng
thích ngay người bị giam giữ. Nếu nhận thấy có nguyên nhân hợp pháp nào để tạm
giữ, thẩm phán công tố sẽ truyền dẫn trình ngay người bị tạm giữ đến thẩm phán
có thẩm quyền.
Phải lập biên bản về mọi sự kiện
trên đây.
Điều thứ 720 - Để thi hành nhiệm vụ luật định
kể trên, thẩm phán công tố, nếu cần, có thể hạ trát, đòi dẫn giải, trát tống
giam theo thể thức ấn định nơi điều 116 vào 117.
ĐIỀU KHOẢN CHUYỂN TIẾP
Điều thứ 721 - Bộ hình sự tố tụng này sẽ có
hiệu lực tức thời đối với tất cả các thủ tục đang tiến hành. Tuy nhiên, các
hành vi thủ tục đã thực hiện theo luật cũ vẫn có hiệu lực
Ngoài ra, điều 3 khoản 3 Bộ hình sự
tố tụng cũng không có hiệu lực hồi tố đối với những sự kiện đã được tòa hộ hay
tòa án hành chánh thụ lý.
Điều thứ 722 - Riêng về việc đại hình, các vụ
kiện đương cứu đã phúc quyết chuyển tống ra ban đại hình tòa sơ thẩm cũng như
các vụ đương cứu trước tòa này, sẽ được chuyển thẳng đến tòa đại hình mà
tòa sơ thẩm kể trên thông thuộc về mặt quản hạt.
Đối với vụ kiện đã có án văn sơ thẩm
chung quyết về nội dung và nếu có đương sự kháng cáo, nội vụ cũng sẽ được đăng
đường ra tòa đại hình liên hệ như định ở khoản trên.
Thụ lý nội vụ, sau khi thẩm định về
sự khả chấp đơn kháng cáo, nếu cần, chiếu luật lệ đương hành vào ngày kháng
cáo, tòa đại hình sẽ phúc thẩm về nội dung và áp dụng các điều 487, và 491
khoản 2 và 3, điều 492 cùng các qui điều khác về tòa đại hình dự liệu trong
quyển II, thiên I, ngoại trừ các điều 265, 266, 268, 269, 270, 272, 273 và 275
Bộ hình sự tố tụng.
Điều luật này cũng áp dụng đối với
vụ đương cứu trước ban đại hình tòa thượng thẩm.
Điều thứ 723 - Khi tuyên phán phúc quyết, ban
đại hình tòa thượng thẩm và nếu có di giao. Tối cao pháp viện sẽ truyền di giao
đến tòa đại hình có thẩm quyền như qui định tronh điều 722 khoản 1 trên đây.
Điều thứ 724 - Để tòa đại hình có thể cấp
thời hoạt động, đặc biệt riêng về năm đầu áp dụng Bộ hình sự tố tụng này, các
điều 256, 257 và 259 khoản 2 của Bộ luật này được hoãn áp dụng.
Danh sách đoàn phụ thẩm nhân dân quy
định nơi điều 255 và 256 Bộ hình sự tố tụng sẽ được thiết lập theo thủ tục đơn
giản. Mười lăm (15) ngày sau khi Tổng thống ban hành các sắc lệnh thiết lập các
tòa đại hình như dự liệu trong điều 230 Bộ hình sự tố tụng, ủy ban định nơi
điều 258 Bộ luật này sẽ ghi vào danh sách phụ thẩm nhân dân các công dân hội đủ
các điều kiện luật định cư ngụ tại nơi tòa đại hình đặt trụ sở.
Lượng số phụ thẩm nhân dân trên danh
sách qui định nơi điều 256 Bộ hình sự tố tụng là lượng số tối thiểu, và đối với
tòa đại hình Saigon, danh sách đó gồm một trăm năm mươi (150) phụ thẩm nhân dân
chọn trong các công dân hội đủ các điều kiện luật định, cư ngụ tại đô thành
Saigon hoặc tỉnh lỵ gia định.
Điều thứ 725 - Những bản văn và những điều
luật trước trái với Bộ hình sự tố tụng này đều bị bãi bỏ, nhất là:
1) Bộ hình sự tố tụng Pháp quốc áp
dụng tại Nam Viet theo sắc lệnh ngày 25 tháng bảy năm 1865;
2) Bộ hình sự tố tụng Bắc kỳ ban
hành do dụ ngày 28 tháng tám năm 1921;
3) Bộ Trung kỳ hình vụ tố tụng Pháp
ban hành do du ngày 2 tháng tám năm 1933.
Đối với những trường hợp không dự
liệu trong Bộ luật này và được luật lệ riêng biệt qui định, tòa án sẽ tiếp tục
áp dụng các luật lệ ấy.
Comments
Post a Comment