QUYỂN
IV
Một vài
thủ tục đặc biệt
THIÊN THỨ NHỨT
Khuyết tịch đại hình
Điều thứ 598 - Nếu có phúc quyết chuyển tống
của phòng luận mà không bắt được bị can hoặc đã tống đạt phúc quyết phòng luận
tội tại cư sở của bị can mà y không xuất diện trong hạn mười (10) ngày kể từ
ngày tống đạt, hoặc sau khi bị bắt hay xuất diện mà bị can đào tẩu, chánh thẩm
tòa đại hình, hay nếu thẩm phán này vắng mặt, chánh án tòa án nơi tòa đại hình
nhóm họp hay thẩm phán được chánh thẩm tòa đại hình ủy nhiệm, sẽ ra án lệnh
truyền bị can phải xuất diện trong hạn mười (10) ngày kể từ ngày ký án lệnh.
Án lệnh ghi rõ nếu bị can không xuất
diện, tòa sẽ xác nhận sự y bất tuân luật pháp, truyền đình chỉ việc hành sử
công quyền và dân quyền của y, cho cung thác tài sản của y trong thời gian thủ
tục khuyết tịch đại hình tiến hành, cấm y hành sử các tố quyền trong thời hạn ấy
và truyền ra lệnh bất cứ ai nếu biết bị can ở đâu phải khai trình.
Án lệnh phải hài rõ trọng tội mà bị
can bị truy tố và mệnh lệnh câu lưu.
Trong mọi trường hợp, chỉ được cung
thác và tịch thâu tài sản do chính bị can đứng bộ làm sở hữu chủ hoặc phần của
y trong khối cộng đồng tài sản.
Điều thứ 599 - Án lệnh nói ở trên sẽ được phổ
biến trên báo chí và niêm yết trong hạn tám (8) ngày tại cửa ngỏ nơi cư sở của
bị can, tại công sở hay quận hành chánh nơi cư sở của y và tại trụ sở tòa đại
hình.
Chưởng lý sẽ gởi đến nha giám đốc
công sản một bản sao án lệnh.
Điều thứ 600 - Hết hạn mười (10) ngày sau
ngày công bố án lệnh, sẽ xử khuyết tịch bị can.
Điều thứ 601 - Luật sư không thể biện hộ cho
bị can khuyết tịch. Tuy nhiên, nếu bị can ở vào tình trạng khiến không thể nào
xuất diện được, cha mẹ hay bạn hữu của y có thể trình bày lý do xin khoan miễn.
Điều thứ 602 - Nếu xét lý do khoan miễn chánh
đáng, tòa đại hình truyền đình hoãn xét xử bị can và nếu cần, truyền
ngưng cung thác tài sản của y trong một thời gian, tòa sẽ ấn định thời gian này
căn cứ vào lý do khoan miễn và vị trí tài sản của bị can.
Điều thứ 603 - Ngoại trừ trường hợp dự liệu
nơi điều 602, tòa đại hình cho đọc phúc quyết chuyển tống bị can ra trước tòa
cùng biên bản tống đạt án lệnh truyền cho y xuất diện và biên bản niêm yết án
lệnh ấy.
Sau khi công tố viện kết luận, tòa
đại hình thẩm xét thủ tục khuyết tịch.
Nếu một trong những thể thức qui
định nơi các điều 598 và 599 không được tôn trọng, tòa tuyên thủ tục vô hiệu và
truyền làm lại thủ tục kể từ hành vi bất hợp lệ đầu tiên.
Trong trường hợp thủ tục hợp lệ, tòa
xét xử tội trạng của bị can ngoài sự hiện diện của các phụ thẩm nhân dân
và nếu kết phạt, không thể cho bị can khuyết tịch hưởng trường hợp giảm khinh.
Tòa xét xử luôn về quyền lợi dân sự.
Điều thứ 604 - Nếu bị can khuyết tịch bị kết
phạt và tài sản không bị tịch thâu, việc cung thác tài sản vẫn được duy trì và
sẽ được kết toán với người hữu quyền sau khi phúc quyết khuyết tịch trở thành
nhất định vì đã mãn hạn thanh tiêu án khuyết tịch đại hình.
Điều thứ 605 - Chưởng lý phải cấp thời cho
đăng vào một nhật báo nơi cư sở sau cùng của bị can bản trích lục phúc quyết
kết phạt.
Bản trích lục cũng được niêm yết tại
cửa ngõ nơi cư sở sau cùng của bị can, tại công sở xã hay quận hành chánh nơi
phạm pháp và tại trụ sở tòa đại hình.
Đồng thời một bản trích lục được gởi
cho nha giám đốc công sản.
Điều thứ 606 - Sau khi biện pháp phổ biến dự
liệu nơi điều trên được thi hành, bị can phải chịu tất cả những sự thất quyền
luật định.
Điều thứ 607 - Bị can bị kết án khuyết tịch
không được quyền thượng tố.
Điều thứ 608 - Trong mọi trường hợp, thủ tục
xử khuyết tịch một bị can không đương nhiên đình hoãn hoặc làm chậm trễ việc
thẩm cứu các đồng phạm hiện diện.
Sau khi xét xử các đồng phạm này,
tòa có thể truyền trao trả tang vật ký nạp tại phòng lục sự cho chân chánh sở
hữu chủ. Tòa cũng có thể truyền giao hoàn tang vật với điều kiện phải xuất
trình mỗi khi cần đến.
Lục sự phải lập biên bản mô tả các
tang vật trước khi giao hoàn.
Điều thứ 609 - Trong thời gian cung thác tài
sản, chánh án tòa án nơi cư sở của bị can sau khi hội ý giám đốc nha công sản,
có thể ra án lệnh truyền ban những khoản nợ cấp cho vợ, con, tôn thuộc của y
nếu họ ở trong tình trạng túng thiếu.
Điều thứ 610 - Nếu bị can bị xử khuyết tịch
nạp mình hoặc bị bắt trước khi hình phạt bị thời tiêu, phúc quyết tòa đại hình
và thủ tục được thực hiện từ khi có án lệnh truyền bị can xuất diện đương nhiên
bị hủy bỏ và y được xét xử lại theo thủ tục thông thường.
Trong trường hợp phúc quyết kết phạt
truyền tịch thâu tài sản của bị can xung vào công khố, các biện pháp đã được
thực hiện để chấp hành quyết định này vẫn giữ nguyên hiệu lực. Nếu sau này phúc
quyết đương tịch không duy trì việc tịch thâu sẽ hoàn trả lại cho bị can các
tài sản chưa phát mãi theo hiện trạng và số tiền thực thâu trong việc bán các
tài sản đã phát mãi.
Điều thứ 611 - Trong trường hợp dự liệu nơi
điều trên, nếu vì bất cứ lý do gì không thể nghe cung nhân chứng và đồng phạm
của bị can, tòa sẽ cho đọc lời khai của họ cùng các tài liệu khác mà chánh thẩm
xét cần thiết cho sự phát huy sự thật.
Điều thứ 612 - Bị can bị kết phạt khuyết tịch
và được tha bổng sau khi xuất diện, phải gánh chịu các sở phí về thủ tục khuyết
tịch, trừ phi được tòa miễn trách.
Tòa đại hình cũng có thể truyền phổ
biến những quyết định tư pháp có lợi cho bị can khuyết tịch theo thể thức dự
liệu nơi điều 605.
THIÊN THỨ HAI
Giả mạo
Điều thứ 613 - Nếu hay biết một văn kiện gì
để cáo giả mạo được thiết lập hay đang được lưu giữ tại một sở ký thác công
lập, biện lý có thể thân hành đến nơi ấy để thực hiện mọi sự nhận xét và kiểm
soát cần thiết.
Biện lý không thể ủy nhiệm cho hình
cảnh lải sử hành quyền nói trên.
Trong trường hợp khẩn cấp, biện lý
có thể truyền di chuyển đến phòng lục sự công tố viện những tài liệu khả nghi.
Điều thứ 614 - Trong mọi cuộc thẩm vấn về giả
mạo văn tư, ngay khi văn kiện ấy được xuất trình hoặc bị sai áp, dự thẩm ra
lệnh ký nạp tại phòng lục sự công tố viện sau khi ghi những chữ "bất biến
cải" vào văn kiện và ký tên cùng với lục sự phòng dự thẩm và các đương
tụng. Trước khi ký nạp, dự thẩm có thể ra lệnh cho sao lại văn kiện bằng cách
chụp ảnh hoặc bằng mọi phương cách khác.
Lục sự công tố viện lập biên bản ký
nạp mô tả tình trạng văn kiện bị đề cáo giả mạo.
Điều thứ 615 - Dự thẩm có thể buộc mọi
người hữu quyền xuất trình những văn kiện đối chiếu hoặc ra lệnh sai áp các văn
kiện ấy. Dự thẩm và lục sự ký tên trên văn kiện đối chiếu và lục sự phải lập
biên bản mô tả như đã nói nơi điều trên.
Điều thứ 616 - Người thu thác công lập được ký
thác những văn kiện bị đề cáo giả mạo hay được dùng để ngụy tạo văn kiện phải
giao những văn kiện ấy lại cho dự thẩm, khi được xuất trình án lệnh, và nếu có
thể được, cung cấp cho dự thẩm những văn kiện đối chiếu hiện đang giữ.
Nếu những văn kiện do một công lại
giao nạp như nói trên, hoặc bị sai áp nơi tay công lại này có tính cách công
chánh chứng thư công lại có thể xin lưu lại bản sao y do lục sự công tố viện
chứng nhận, bản sao có thể được thực hiện bằng cách chụp ảnh hay bằng mọi
phương cách khác.
Bản sao được lưu trữ như văn thư
nguyên cáo tại văn phòng của công lại cho đến khi bản chánh được hoàn trả.
Điều thứ 617 - Trong khi phiên xử của tòa sơ
thẩm hay của toà thượng thẩm, nếu một bút lục hồ sơ hay một văn kiện được xuất
trình bị đề cáo giả mạo, tòa án, sau khi hội ý công tố viện và các đương tụng,
quyết định nên đình hoãn xét xử hay không cho đến khi việc giả mạo được thanh
quyết do tòa án có thẩm quyền.
Nếu công tố quyền đã bị tiêu diệt
hoặc không thể được hành sử đối với tội giả mạo, và không có dấu hiệu gì là
người xuất trình văn kiện đã tri tình sử dụng văn tư giả mạo, tòa án thụ lý
chánh vụ xét luôn về tính chất của văn tự bị đề cáo giả mạo như một đới tranh.
Điều thứ 618 - Trước Tối cao pháp viện, đơn
xin đăng ký giả mạo phải gởi đến chủ tịch ban phá án và đệ nạp tại phòng lục
sự. Đơn xin đăng ký giả mạo phải do đương sự hoặc luật sư của họ hoặc người
được ủy quyền đặc định ký tên. Trong trường hợp sau này phải đính kèm chứng thư
ủy quyền vào biên bản nhận đơn do lục sự lập. Nếu nguyên đơn không biết ký tên,
lục sự nhận đơn phải ghi điểm này vào biên bản.
Điều thứ 619 - Trong thời hạn một tháng kể từ
ngày phòng lục sự nhận được đơn xin đăng ký giả mạo, chủ tịch ban phá án phải
thẩm xét sau khi hội ý với chưởng lý Tối cao pháp viện.
Chủ tịch ban phá án sẽ ra án lệnh
bác đơn hoặc cho phép đăng ký giả mạo.
Trong trường hợp bị bác đơn xin đăng
ký giả mạo, nguyên đơn phải gánh chịu án phí là một ngàn đồng (1.000$00) trừ
trường hợp được chủ tịch ban phá án minh thị miễn trách.
Điều thứ 620 - Án lệnh cho phép đăng ký giả
mạo phải đựơc tống đạt cho bị đơn trong thời hạn mười lăm (15) ngày cùng với tờ
đốc thúc bị đơn cho biết y còn tiếp tục xử dụng văn kiện bị đề cáo giả mạo hay
không.
Bản sao đơn xin đăng ký giả mạo cùng
án lệnh cho phép phải được đính kèm vào vi bằng đốc thúc.
Điều thứ 621 - Bị đơn phải phúc đáp lời đốc
thúc trong thời hạn mười lăm (15) ngày bằng cách báo cho nguyên đơn và chủ tịch
ban phá án biết quyết định của y còn tiếp tục hay không xử dụng văn kiện bị đề
cáo giả mạo.
Điều thứ 622 - Trong trường hợp bị đơn quyết
định tiếp tục xử dụng văn kiện bị đề cáo giả mạo, chủ tịch ban phá án sẽ truyền
các đương sự khiếu tố trước cơ quan tài phán do thẩm phán này chỉ định để đăng
ký giả mạo phụ đới.
THIÊN THỨ BA
Thủ tục lái lập hồ sơ thất lạc
Điều thứ 623 - Trong trường hợp vì nguyên
nhân bất thường, nguyên bản phúc quyết hay án văn xử việc đại hình, tiểu hình
hay vi cảnh chưa được chấp hành, hoặc những bút lục hồ sơ đương hành hay bản
sao lập theo điều 76 khoản bị tiêu hủy, gian đoạt hay thất lạc mà không thể
thiết lập lại được, sẽ áp dụng thủ tục sau đây.
Điều thứ 624 - Nếu bản tòan sao hay bản sao
có thị thực của án văn hay phúc quyết còn được lưu trữ, bản này được xem như
nguyên bản, chánh án tòa đã tuyên phán quyết bị thất lạc truyền cho công lại
hoặc người đang giữ bản sao phải ký nạp ngay bản ấy nơi phòng lục sự tòa án sở
tại. Lệnh của chánh án giải nhiệm người giữ bản sao án văn.
Điều thứ 625 - Nếu không còn bản toàn sao hay
bản sao có thị lực của phúc quyết đại hình nhưng còn bản kê các câu hỏi có ghi
quyết định của cuộc hội bàn như đã dự liệu nơi điều 355, tòa đại hình sẽ căn cứ
vào tài liệu ấy để tuyển lại phúc quyết.
Điều thứ 626 - Nếu không thể tìm được bản kê
các câu hỏi có ghi quyết định của cuộc hội bàn, hoặc vụ án đã được xử theo thủ
tục khuyết tịch đại hình mà không còn lại một tài liệu viết nào cả, thì sẽ mở
lại cuộc thẩm vấn để tái lập hồ sơ kể từ bút lục bị thất lạc.
Thủ tục này cũng được áp dụng cho
các việc tiểu hình hay vi cảnh nếu không còn bản toàn sao hay bản sao án văn có
thị lực.
THIÊN THỨ IV
Thủ tục lấy lời khai nhân viên Chánh
Phủ và đại diện ngoại giao
Điều thứ 627 - Thủ tướng và nhân viên Chánh
phủ chỉ có thể xuất đình với tư cách nhân chứng nếu được hội đồng nội các chấp
thuận, chiếu phúc trình của Tổng trưởng tư pháp.
Trong trường hợp nói trên, việc cung
khai được thi hành theo thể thức thông thường.
Điều thứ 628 - Nếu không có giấy mời đến cung
khai hoặc không có phép của hội đồng nội các, chánh nhất tòa thượng thẩm sẽ
đích thân đến cư sở của nhân chứng để tiếp nhận lời khai.
Nếu nhân chứng cư ngụ ngoài nơi đặt
trụ sở tòa thượng thẩm, chánh án tòa sơ thẩm sẽ đảm nhiệm việc lấy lời khai.
Để thực hiện mục tiêu này, thẩm phán
thụ lý vụ án gởi đến chánh nhất tòa thượng thẩm hoặc chánh án tòa sơ thẩm nơi
cư sở của nhân chứng, tùy từng trường hợp, bản trần thuật nội vụ và bản kê câu
hỏi để nhân chứng giải đáp.
Điều thứ 629 - Lời cung khai tiếp nhận theo
thể thức nói trên được niêm phong, đóng dấu, rồi chuyển ngay đến phòng lục sự
tòa án đã yêu cầu lấy lời khai và cấp thời thông tri công tố viện cùng các
đương sự.
Tại phiên tòa đại hình, tòa sẽ cho
đọc lời khai và cho tranh luận về tài liệu này.
Điều thứ 630 - Muốn lấy lời khai một đại diện
ngoại giao, phải có văn thư nhờ Bộ ngoại giao chuyển đến nhân chứng ấy. Khi lời
yêu cầu được chấp nhận, chánh nhất hay thẩm phán được ủy nhiệm sẽ tiếp nhận lời
khai theo thể thức dự liệu nơi điều 628 khoản 3 và điều 629.
THIÊN THỨ V
Phân định thẩm quyền
Điều thứ 631 - Trong trường hợp hai dự thẩm
thuộc hai tòa án khác nhau đồng thời thụ lý vụ phạm pháp, công tố viện có thể
yêu cầu một trong hai dự thẩm thoái thẩm vì lợi ích cho việc điều hành công lý.
Nếu tranh chấp về thẩm quyền vẫn tồn tại, sẽ phân định thẩm quyền như dự liệu
nơi các điều 632 đến 635.
Điều thứ 632 - Trong trường hợp hai tòa tiểu
hình, hai dự thẩm hoặc hai tòa vi cảnh cùng một quản hạt tòa thượng thẩm đồng
thời thụ lý một vụ phạm pháp, phòng luận tội sẽ phân định thẩm quyền theo lời
yêu cầu của công tố viện hoặc chiếu theo đơn của bị can hay dân sự nguyên cáo.
Điều thứ 633 - Mọi tranh chấp khác về thẩm
quyền, tích cực hay tiêu cực giữa các cơ quan tài phán, dù thường pháp hay đặc
biệt sẽ do phòng hình Tối cao pháp viện thụ lý và phán định theo lời yêu cầu
của công tố viện hoặc chiếu đơn của bị can hay dân sự nguyên cáo.
Ngoài ra trong khi xét xử một vụ
thượng tố, Tối cao pháp viện có quyền đương nhiên phân định thẩm quyền và nếu
cần, phân định trước về sự tranh chấp thẩm quyền có thể xảy ra, Tối cao pháp viện
có thể phán xét về sự hữu hiệu của mọi hành vi mà cơ quan tài phán bị buộc
thoái thẩm, đã thực hiện.
Điều thứ 634 - Trước khi phán quyết, phòng
hình Tối cao pháp viện có thể truyền thông tri đơn xin phân định thẩm quyền cho
các đương sự; bút lục hồ sơ với ý kiến của các đương sự sẽ được chuyển đến
phòng hình trong thời hạn do phòng này ấn định. Thủ tục đương hành trước cơ
quan tài phán xét xử hay thẩm vấn phải được đình chỉ.
Điều thứ 635 - Phúc quyết phân định thẩm
quyền được tống đạt cho các đương tụng và họ có thể kháng tố nếu không được
thông tri đơn xin phân định thẩm quyền. Đương sự phải khai kháng tố theo thể
thức và trong thời hạn dự liệu cho việc thượng tố, tại phòng lục sự nơi một
trong các tòa án có cuộc tranh chấp về thẩm quyền.
Sự kháng tố có hiệu lực đình chỉ nếu
phòng hình Tối cao pháp viện phán định như vậy.
Sự kháng tố được xét xử trong hạn
mười lăm (15) ngày kể từ ngày phòng lục sự Tối cao pháp viện nhận được hồ sơ.
Nếu bác đơn kháng tố, phòng hình có thể kết phạt nguyên đơn hai ngàn đồng
(2.000$00) tiền vạn dân sự.
THIÊN THỨ VI
Di giao
Điều thứ 636 - Về đại hình, tiểu hình hay vì
cảnh phòng hình Tối cao pháp viện có thể truyền cho một cơ quan tài phán thẩm
vấn hay xét xử phải thoái thẩm, và truyền di giao nội vụ cho một cơ quan tài
phán khác đồng hệ thống và đẳng cấp, nếu vì có sự hiểm nghi chánh đáng hay lý
do hệ trọng nào khác tòa án có thẩm quyền không thể xét xử được.
Chưởng lý Tối cao pháp viện hoặc
công tố viện nơi tòa thụ lý nội vụ hoặc bị can hoặc dân sự nguyên cáo có thể
nạp đơn xin di giao.
Đơn này phải được phòng lục sự Tối
cao pháp viện tống đạt cho các đương sự, những người này phải ký nạp biện minh
trạng tại phòng lục sự Tối cao pháp viện trong hạn mười (10) ngày, kể từ ngày
nhận được giấy tống đạt.
Đơn xin di giao không có hiệu lực
đình chỉ, trừ phi Tối cao pháp viện định khác.
Vì lợi ích cho việc điều hành công
lý, chưởng lý Tối cao pháp viện cũng có thể yêu cầu di giao một vụ án theo thể
thức nói trên.
Trong trường hợp lý do hiềm nghi
chánh đáng bị bác khứơc, phòng hình Tối cao pháp viện vẫn có thể truyền di giao
vì lợi ích cho việc điều hành công lý.
Điều thứ 637 - Ngoài những quy tắc ấn định
nơi các điều 35, 75, 371, biện lý, dự thẩm, tòa sơ thẩm và thượng thẩm nơi giam
giữ người bị án phạt giam đều có thẩm quyền thụ lý những vụ phạm pháp xẩy ra
tại nơi khác mà người ấy bị quy trách.
Điều thứ 638 - Nếu người bị phạt giam hiện bị
giam mà không thể áp dụng điều 636, sẽ di giao nội vụ từ tòa án đang thụ lý đến
tòa án nơi giam giữ, theo thủ tục dự liệu cho việc phân định thẩm quyền và chỉ
theo lời yêu cầu của công tố viện mà thôi.
Điều thứ 639 - Phòng hình tối cao pháp viện
cũng có thể truyền di giao vì lý do an ninh công cộng, nếu có lời yêu cầu của
chưởng lý Tối cao pháp viện.
điều thứ 640 - Phòng lục sự Tối cao pháp viện
phải tống đạt phán quyết về đơn xin di giao cho các đương sự trong thời hạn
mười (10) ngày kể từ ngày phán quyết.
Điều thứ 641 - Nếu đơn xin di giao vì lý do
an ninh công cộng bị bác, một đơn khác có thể được đệ nạp, căn cứ vào những sự
kiện mới.
THIÊN THỨ VII
Cáo tị và hồi tị
Điều thứ 642 - Thẩm phán xử án có thể bị cáo
tị vì những duyên cớ sau đây:
1) Nếu thẩm phán hay người phối ngẫu
là thân thuộc hoặc thích thuộc cho đến bậc thứ sáu của một đương tụng hay người
phối ngẫu của đương tụng ấy. Dù đã ly hôn hay người phối ngẫu đã mệnh một, thẩm
phán vẫn có thể bị cáo tị nếu là thích thuộc đến bậc thứ nhì của một đương
tụng;
2) Nếu thẩm phán hay người phối
ngẫu, hoặc những người mà thẩm phán là giám hộ, đại nhiệm giám hộ, quản tài hay
bảo tá tư pháp, hoặc những hội hay hiệp hội mà thẩm phán là quản trị viên hay
giám sát viên có quyền lợi trong vụ tranh tụng;
3) Nếu thẩm phán hay người phối ngẫu
là thân thuộc thích thuộc đến bậc thứ nhì của giám hộ, đại nhiệm giám hộ, quản
tài hay bảo tá tư pháp của một đương tụng, hay của một quản trị viên, giám đốc
hay quản lý một hội đương tụng;
4) Nếu thẩm phán hay người phối ngẫu
ở trong tình trạng lệ thuộc đối với đương tụng;
5) Nếu thẩm phán đã xét xử vụ tranh
tụng với tư cách thẩm phán hay trọng tài hoặc đã chỉ dẫn với tư cách cố vấn
hoặc đã cung khai với tư cách nhân chứng;
6) Nếu thẩm phán hay người phối ngẫu
hoặc thân thuộc hay thích thuộc trực hệ có vụ kiện chống một đương tụng, người
phối ngẫu của đương tụng, hoặc thân thuộc hay thích thuộc trực hệ của họ;
7) Nếu thẩm phán hay người phối ngẫu
có vụ kiện trước tòa án mà một đương tụng là thẩm phán;
8) Nếu thẩm phán hay người phối ngẫu
hoặc thân thuộc hay thích thuộc trực hệ của họ đương tranh nại về một vấn đề
giống như vấn đề tranh chấp giữa các đương tụng;
9) Nếu thẩm phán hay người phối ngẫu
đã có những hành vi lộ liễu khá hệ trọng đối với một đương tụng khiến cho có
thể nghi ngờ sự vô tư của thẩm phán.
Điều thứ 643 - Không thể cáo tị thẩm phán
công tố.
Điều thứ 644 - Bị can hay một đương tụng muốn
cáo tị một dự thẩm, một thẩm phán tòa vi cảnh, một thẩm phán xử án tòa sơ thẩm
hay một hội thẩm, tòa thượng thẩm, phải nạp đơn cho chánh nhất tòa thượng thẩm,
nếu không thỉnh cầu sẽ vô hiệu.
Đơn phải hài rõ danh tánh thẩm phán
hay những thẩm phán bị cáo tị và phải viện dẫn lý do.
Một đương sự tự ý khởi tụng trước
một tòa thượng thẩm, một tòa sơ thẩm hay một dự thẩm chỉ có thể xin cáo tị thẩm
phán nếu sau khi khởi tố, có xảy ra những duyên cố để cáo tị.
Điều thứ 645 - Chánh nhất tòa thượng thẩm
tống đạt theo hệ thống hành chánh đơn xin cáo tị cho thẩm phán bị cáo tị.
Đơn này không đương nhiên buộc thẩm
phán bị cáo tị phải thoái thẩm. Tuy nhiên, chánh nhất tòa thượng thẩm sau khi
hội ý chưởng lý, có thể truyền đình hoãn cuộc thẩm vấn hay việc xét xử.
Điều thứ 646 - Chánh nhất tòa thượng thẩm
tiếp nhận biện minh trạng của nguyên đơn và của thẩm phán bị cáo tị, lấy ý kiến
của chưởng lý và quyết định về đơn xin cáo tị.
Định lệnh của chánh nhất không thể
bị thượng cầu và đương nhiên có hiệu lực.
Điều thứ 647 - Đơn xin cáo tị chánh nhất hoặc
chánh án phòng tòa thượng thẩm phải được gởi đến Chủ tịch Tối cao pháp viện.
Chủ tịch Tối cao pháp viện sau khi
hội ý chưởng lý sẽ ra án lệnh chung quyết về đơn ấy. Các qui tắc dự liệu nơi
điều 645 được áp dụng.
Điều thứ 648 - Đơn xin cáo tị thẩm phán Tối
cao pháp viện phải được viện dẫn lý do và gởi đến Chủ tịch cơ quan tài phán Tối
cao. Đại hội đồng Tối cao pháp viện sẽ thanh quyết đơn này.
Điều thứ 649 - Án lệnh bác đơn xin cáo tị
tuyên phạt nguyên đơn một khoản tiền phạt dân sự từ năm ngàn đồng (5.000$00)
đến mười ngàn đồng (10.000$00).
Điều thứ 650 - Thẩm phán xử án ở vào những
trường hợp dự liệu nơi điều 642 chỉ có thể tự mình hội tị, nếu được chánh nhất
tòa thượng thẩm cho phép, sau khi hội ý chưởng lý. Quyết định của chánh nhất
không thể bị thượng cầu.
THIÊN THỨ VIII
Xét xử các vi phạm tại phiên tòa
Điều thứ 651 - Ngoại trừ những trường hợp dự
liệu nơi điều 335 và 438, những vi phạm tại phiên tòa sẽ đương nhiên hoặc theo
lời yêu cầu của công tố viện, được xét xử theo những điều khoản sau đây, khỏi
phải áp dụng những qui tắc riêng về thẩm quyền hay về thủ tục.
Điều thứ 652 - Nếu một tội phạm vi cảnh xảy
ra tại phiên xử, tòa vi cảnh, tòa tiểu hình, tòa thượng thẩm hay tòa đại hình
lập vi bằng sự phạm pháp, nghe bị can, nhân chứng cung khai, công tố viện kết
luận, luật sư bào chữa, nếu có, và áp dụng tức khắc những hình phạt do luật
pháp dự liệu.
Điều thứ 653 - Nếu vi phạm xảy ra tại phiên
tòa tiểu hình, tòa thượng thẩm hay tòa đại hình là một khinh tội, thể thức dự
liệu nơi điều trên vẫn được áp dụng. Trong trường hợp tuyên phạt một hình phạt
giam trên một (1) tháng, tòa có thể hạ trát tống giam bị can.
Nếu một khinh tội xảy ra tại phiên
xử tòa vi cảnh, thẩm phán lập vi bằng sự phạm pháp và chuyển đến biện lý; trong
trường hợp hình phạt dự liệu trên sáu (6) tháng phạt giam, thẩm phán có thể
truyền giữ bị can và dẫn ngay đến biện lý.
Điều thứ 654 - Nếu một trọng tội xảy ra tại
phiên xử, tòa đại hình, tòa thượng thẩm, tòa tiểu hình hay tòa vi cảnh liên hệ
cho giữ và lấy cung thủ phạm, lập biên bản, ra lệnh chuyển các văn kiện và dẫn
ngay bị can đến biện lý có thẩm quyền để yêu cầu mở cuộc thẩm vấn.
THIÊN THỨ IX
Đặc quyền tài phán
Điều thứ 655 - Thẩm phán xử án và thẩm phán
công tố được hưởng đặc quyền tài phán do quy chế riêng ấn định.
Điều thứ 656 - Hình cảnh lại nói nơi điều 15
phạm vào một khinh tội hay một trọng tội trong khi thi hành chức vụ được hưởng
đặc quyền tài phán theo những thể thức sau đây.
Điều thứ 657 - Nếu hành vi phạm pháp cấu
thành một khinh tội, chánh nhất tòa thượng thẩm theo lời yêu cầu của chưởng lý
chỉ định tòa án cùng trong quản hạt của tòa thượng thẩm, nhưng khác với tòa án
nơi hình cảnh lại hành sự để thụ lý việc truy tố và xét xử.
Điều thứ 658 - Nếu hành vi phạm pháp cấu
thành một trọng tội, chánh nhất tòa thượng thẩm sẽ thi hành nhiệm vụ dự thẩm và
chưởng lý nhiệm vụ công tố. Chánh nhất và chưởng lý có thể đặc biệt ủy thác
những thẩm phán khác để thi hành nhiệm vụ ấy.
Điều thứ 659 - Cho đến khi việc chỉ định tòa
án hay việc ủy nhiệm thẩm phán như đã được dự liệu nơi điều 657 và 658 kể trên
được thực hiện, hình cảnh lại nào cũng có thể vi chứng tội phạm. Ngoài ra,
những điều khoản tổng quát về thủ tục dự liệu trong Bộ luật này vẫn được áp
ụng.
Điều thứ 660 - Phòng luận tội tuyên phúc
quyết chuyển tống bị can ra trước tòa đại hình khác hơn tòa đại hình nơi bị can
hành sự để xét xử vụ phạm pháp.
THIÊN THỨ X
Trọng tội và khinh tội phạm tai quốc
ngoại
Điều thứ 661 - Người Việt Nam phạm ở ngoài
lãnh thổ Việt Nam một trọng tội mà luật Việt Nam trừng phạt có thể bị truy tố
và xét xử tại Việt Nam.
Nếu phạm khinh tội thì chỉ có thể bị
truy tố và xét xử tại Việt Nam, khi tội phạm ấy cũng bị trừng phạt theo luật
của nơi xảy ra tội phạm.
Đối với tội phạm xâm hại an ninh
quốc gia, giả mạo ấn tín quốc gia, giả mạo tiền tệ hay giấy bạc quốc gia đang
lưu hành, tội phạm dù xảy ra ngoài lãnh thổ Việt Nam, vẫn bị truy tố và xét xử
tại Việt Nam
Khoản 1 và 2 điều luật này cũng được
áp dụng cho những người đã thử đắc quốc tịch Việt Nam sau khi phạm tội.
Điều thứ 662 - Có thể bị truy tố và xét xử
trước tòa án Việt Nam, kẻ nào tại Việt Nam đã tòng phạm với kẻ khác phạm trọng
tội hoặc khinh tội tại ngoại quốc, nếu tội phạm đều bị luật ngoại quốc và Việt
Nam trừng trị và đã có án văn trở thành nhất định của tòa án ngoại quốc xác
định tội trạng.
Điều thứ 663 - Khinh tội phạm đến thân thể và
tài sản tư nhân tại ngoại quốc chỉ có thể bị truy tố, theo lời yêu cầu của công
tố viện. Trước khi truy tố, phải có đơn thưa của người bị thiệt hại hay sự tố
cáo chánh thức của nhà chức trách ngoại quốc với nhà chức trách Việt Nam.
Điều thứ 664 - Bất cứ người nào phạm một
trọng tội hay khinh tội ở ngoại quốc, sẽ không bị truy tố ở Việt Nam, nếu minh
chứng đã bị xét xử chung quyết tại nước ngoài và trong trường hợp có án phạt,
đã thụ hình hoặc không phải thụ hình vì lý do luật định.
Điều thứ 665 - Sự phạm pháp được coi như
phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam, khi một trong những hành vi cấu thành đã xảy
ra tại đó.
Điều thứ 666 - Ngoài lãnh thổ Việt Nam, người
ngoại quốc can tội xâm phạm an ninh quốc gia, giả mạo ấn tín quốc gia, giả mạo
tiền tệ hay giấy bạc quốc gia đang lưu hành với tư cách là chánh phạm hay tòng
phạm, có thể bị truy tố và xét xử theo luật lệ Việt Nam, nếu bị can bị bắt giữ
tại Việt Nam hoặc nếu Chánh phủ đã được chấp nhận dẫn độ kẻ này.
Điều thứ 667 - Người Việt Nam phạm khinh tội
và tội vi cảnh về thủy lâm, nông thôn, ngư nghiệp, quan thuế, thuế vụ, trên
lãnh thổ của một trong các quốc gia giáp giới, có thể bị truy tố và xét xử tại
Việt Nam, theo luật pháp Việt Nam, nếu quốc gia giáp giới đó cũng được phép
truy tố dân bản quốc của họ đã phạm các tội kể trên tại Việt Nam.
Sự hỗ tương tư pháp sẽ được xác nhận
trong hiệp ước quốc tế hoặc bằng sắc lệnh.
Điều thứ 668 - Trong các trường hợp dự liệu
nơi thiên này, sự truy tố sẽ được thực hiện bởi biện lý tòa sơ thẩm nơi trú
quán của bị can hoặc nơi bị can trú ngụ sau cùng hoặc nơi bắt gặp bị can.
Theo lời yêu cầu của công tố viện
hoặc của các đương sự. Tối cao pháp viện có thể truyền di lý nội vụ đến tòa án
gần nơi phạm pháp hơn.
Comments
Post a Comment