CÔNG ƯỚC
(Ký kết ngày 10 tháng 12 năm 1982)
CÁC
QUỐC GIA THÀNH VIÊN CỦA CÔNG ƯỚC
Với lòng mong muốn giải quyết, trên
tinh thần hiểu biết và hợp tác với nhau, mọi vấn đề liên quan đến luật biển, và
ý thức được tầm vóc lịch sử của Công ước là một cống hiến quan trọng vào việc
giữ gìn hòa bình, công lý và tiến bộ cho tất cả các dân tộc trên thế giới;
Nhận thấy rằng, những sự kiện mới nảy
sinh kể từ các Hội nghị của Liên hợp quốc về luật biển được nhóm họp tại
Giơnevơ năm 1958 và năm 1960, đã làm tăng thêm sự cần thiết phải có một Công
ước mới về luật biển có thể được mọi người chấp nhận;
Ý thức rằng, những vấn đề về các vùng
biển có liên quan chặt chẽ với nhau và cần được xem xét một cách đồng bộ;
Thừa nhận rằng, điều đáng mong muốn là,
bằng Công ước với sự quan tâm đúng mức đến chủ quyền của tất cả các quốc gia,
thiết lập được một trật tự pháp lý cho các biển và đại dương làm dễ dàng cho
việc sử dụng công bằng và hiệu quả những tài nguyên, việc bảo tồn những nguồn
lợi sinh vật của các biển và các đại dương, việc nghiên cứu, bảo vệ và gìn giữ
môi trường biển;
Cho rằng, việc thực hiện các mục tiêu
này sẽ góp phần thiết lập nên một trật tự kinh tế quốc tế đúng đắn và công
bằng, trong đó có tính đến các lợi ích và nhu cầu của toàn thể loài người và
đặc biệt là các lợi ích và nhu cầu riêng của các nước đang phát triển, dù có
biển hay không có biển;
Mong muốn phát triển bằng Công ước,
các nguyên tắc trong Nghị quyết 2749 (XXV) ngày 17 tháng 12 năm 1970, trong đó
Đại hội đồng Liên hợp quốc đã đặc biệt trịnh trọng tuyên bố rằng khu vực đáy
biển và đại dương, cũng như lòng đất dưới đáy các khu vực nằm ngoài giới hạn
chung của loài người và việc thăm dò, khai thác khu vực này sẽ được tiến hành vì
lợi ích của toàn thể loài người, không phụ thuộc vào vị trí địa lý của các quốc
gia;
Tin tưởng rằng, việc pháp điển hóa và
sự phát triển theo chiều hướng tiến hóa của Luật biển được thực hiện trong Công
ước sẽ góp phần tăng cường hòa bình, an ninh, hợp tác và quan hệ hữu nghị giữa
tất cả các dân tộc phù hợp với các nguyên tắc công bằng và bình đẳng về quyền,
và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tiến bộ về kinh tế và xã hội của tất cả các
dân tộc trên thế giới, phù hợp với các mục tiêu và các nguyên tắc của Liên hợp quốc
như đã được nêu trong Hiến chương;
Khẳng định rằng, các vấn đề không quy định trong Công ước sẽ
tiếp tục được xử lý bằng các quy tắc và nguyên tắc của pháp luật quốc tế chung;
Đã thỏa thuận như sau:
1. Những thuật ngữ được
sử dụng trong Công ước cần được hiểu như sau:
1. “Vùng” (Zone): là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài
giới hạn quyền tài phán quốc gia;
2. “Cơ quan quyền lực” (Autorité): là cơ quan quyền lực quốc tế về đáy
biển;
3. “Các hoạt động được tiến hành trong Vùng” (activités menées dans la Zone):
là mọi hoạt động thăm dò và khai thác các tài nguyên của Vùng;
4. “Ô nhiễm môi trường biển” (Pullution du milieu marin): là việc con
người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường
biển, bao gồm cả các cửa sông, khi việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác
hại như gây tổn hại đến nguồn lợi sinh vật, và đến hệ động vật và hệ thực vật
biển, gây nguy hiểm cho sức khỏe con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở
biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác,
làm biến đổi chất lượng nước biển về phương diện sử dụng nó và làm giảm sút các
giá trị mỹ cảm của biển;
5. a) “Sự nhận chìm” (immersion) là:
i. mọi sự trút bỏ có ý
thức xuống biển các chất thải hoặc các chất khác từ các tàu thuyền, phương tiện
bay, giàn nổi hoặc công trình khác được bố trí ở biển.
ii. mọi sự đánh chìm tàu
thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc các công trình khác được bố trí ở biển.
b) Thuật ngữ “nhận chìm” không nhằm vào:
i. việc vứt bỏ các chất
thải hoặc các chất khác được sản sinh trực tiếp hoặc gián tiếp trong việc khai thác
bình thường của tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc các công trình khác
được bố trí trên biển, cũng như các thiết bị của chúng, ngoại trừ các chất thải
hoặc các chất khác được chuyên chở hoặc chuyển tài trên các tàu thuyền, phương
tiện bay, giàn nổi hoặc các công trình khác bố trí ở biển được dùng để thải bỏ
các chất đó, trên các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hay các công trình
đó tạo ra;
ii. việc tàng chứa các chất
với mục đích không phải chỉ là để thải bỏ chúng với điều kiện là việc tàng chứa
này không đi ngược lại những mục đich của Công ước.
2.1 “Các quốc gia thành viên” (Etats Parties) là những quốc gia đã chấp
nhận sự ràng buộc của Công ước và Công ước có hiệu lực đối với các quốc gia đó.
2. Công ước được áp dụng
mulatis mutandis (với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho những thực thể
nói trong Điều 305 khoản 1, điểm b, c, d, e và f đã trở thành thành viên của
Công ước, theo đúng với các điều kiện liên quan đến từng thực thể; trong giới hạn
đó, thuật ngữ “quốc gia thành viên” cũng dùng để chỉ những thực thể này.
Chủ
quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình,
và trong trường hợp một quốc gia quần đảo, ra ngoài vùng nước quần đảo, đến một
vùng biển tiếp liền, gọi là lãnh hải (merterritoriale)
Chủ
quyền này được mở rộng đến vùng trời trên lãnh hải, cũng như đến đáy và lòng
đất của biển này.
Chủ
quyền của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định.
Mọi quốc
gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này không vượt
quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước.
Ranh
giới phía ngoài của lãnh hải là một đường mà mỗi điểm ở trên đường đó cách điểm
gần nhất của đường cơ sở một khoảng cách bằng chiều rộng của lãnh hải.
Trừ khi
có quy định trái ngược của Công ước, đường cơ sở thông thường dùng để tính
chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển, như được thể
hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận.
Trong
trường hợp những bộ phận đảo cấu tạo bằng san hô hoặc các đảo có đá ngầm ven bờ
bao quanh, thì đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp
nhất ở bờ phía ngoài cũng của các mỏm đá, như đã được thể hiện trên các hải đồ
được quốc gia ven biển chính thức công nhận.
1. Ở nơi nào bờ biển bị
khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ
biển, phương pháp đường cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử
dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
2. Ở nơi nào bờ biển cực
kỳ không ổn định do có một châu thổ và những đặc điểm tự nhiên khác, các điểm
thích hợp có thể được lựa chọn dọc theo ngấn nước triều thấp nhất có chuyển
dịch vào phía trong bờ, các đường cơ sở đã được vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới
khi các quốc gia ven biển sửa đổi đúng theo Công ước.
3. Tuyến các đường cơ sở
không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển, và các vùng biển ở bên
trong các đường cơ sở này phải gắn với đắt liền đủ đến mức đạt được chế độ nội
thủy.
4. Các đường cơ sở thẳng
không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm, trừ trường
hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt
nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của
quốc tế.
5. Trong những trường hợp
mà phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp dụng theo khoản 1, khi ấn định một
số đoạn đường cơ sở có thể tính đến những lợi ích kinh tế riêng biệt của khu
vực đó mà thực tế và tầm quan trọng của nó đã được một quá trình sử dụng lâu
dài chứng minh rõ ràng.
6. Phương pháp đường cơ sở
thẳng do một quốc gia áp dụng không được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác
bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế.
1. Trừ trường hợp đã được
quy định ở Phần IV, các vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở của lãnh hải
thuộc nội thủy của quốc gia.
2. Khi một đường cơ sở
thẳng được vạch ra theo đúng phương pháp được nói ở Điều 7 gộp vào nội thủy các
vùng nước trước đó chưa được coi là nội thủy, thì quyền đi qua không gây hại
nói trong Công ước vẫn được áp dụng ở các vùng nước đó.
Nếu
một con sông đổ ra biển mà không tạo thành vụng thì đường cơ sở là một đường
thẳng được kẻ ngay qua cửa sông nối liền các điểm ngoài cùng của ngấn nước
triều thấp nhất ở hai bên bờ sông.
1. Điều này chỉ liên quan
đến những vịnh mà bờ vịnh thuộc một quốc gia duy nhất.
2. Trong Công ước, “Vịnh”
(baie) cần được hiểu là một vùng lõm sâu rõ rệt vào đất liền mà chiều sâu của
vùng lõm đó so sánh với chiều rộng ở ngoài cửa của nó đến mức là nước của vùng
lõm đó được bờ biển bao quanh và vùng đó lõm sâu hơn là một sự uốn cong của bờ biển.
Tuy nhiên, một vũng lõm chỉ được coi là một vịnh nếu như diện tích của nó ít
nhất cũng bằng diện tích một nửa hình tròn có đường kính là đường thẳng kẻ
ngang qua cửa vào của vùng lõm.
3. Diện tích của một vùng
lõm được tính giữa ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển của vùng lõm và
đường thẳng nối liền các ngấn nước triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự
nhiên. Nếu do có các đảo mà một vùng lõm có nhiều cửa vào, thì nửa hình tròn
nói trên có đường kính bằng tổng số chiều dài các đoạn thẳng cắt ngang các cửa
vào đó. Diện tích của các đảo nằm trong một vùng lõm được tính vào diện tích
chung của vùng lõm.
4. Nếu khoảng cách giữa
các ngấn nước triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên một vịnh không vượt
quá 24 hải lý, thì đường phân giới có thể được vạch giữa hai ngấn nước triều
thấp nhất này và vùng nước ở phía bên trong đường đó được coi là nội thủy.
5. Khi khoảng cách giữa
các ngấn nước triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên của một vịnh vượt
quá 24 hải lý, thì được kẻ một đoạn đường cơ sở thẳng dài 24 hải lý ở phía
trong vịnh, sao cho phía trong của nó có một diện tích nước tối đa.
6. Các quy định trên đây
không áp dụng đối với các vịnh gọi là “vịnh lịch sử” và cũng không áp dụng đối
với các trường hợp làm theo phương pháp đường cơ sở thẳng được trù định trong
Điều 7.
Để ấn định
ranh giới lãnh hải, các công trình thiết bị thường xuyên là bộ phận hữu cơ của
một hệ thống cảng, nhô ra ngoài khơi xa nhất, được coi là thành phần của bờ
biển. Các công trình thiết bị ở ngoài khơi xa bờ biển và các đảo nhân tạo không
được coi là những công trình thiết bị cảng thường xuyên.
Các
vũng tàu được dùng thường xuyên vào việc xếp dỡ hàng hóa và làm khu neo tàu,
bình thường nằm hoàn toàn hoặc một phần ở ngoài đường ranh giới bên ngoài của
lãnh hải cũng được coi như là bộ phận của lãnh hải.
1. “Bãi cạn lúc chìm lúc nổi”
(haut-fonds découvrants) là những vùng đất nhô cao tự nhiên có biển bao quanh,
khi thủy triều xuống thấp thì lộ ra, khi thủy triều lên cao thì bị ngập nước.
Khi toàn bộ hay một phần bãi cạn đó ở cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách
không vượt quá chiều rộng của lãnh hải, thì ngấn nước triều thấp nhất ở trên
các bãi cạn này có thể được dùng làm đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh
hải.
2. Khi các bãi cạn lúc
chìm lúc nổi hoàn toàn ở cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách vượt quá
chiều rộng của lãnh hải, thì chung không có lãnh hải riêng.
Quốc
gia ven biển, tùy theo hoàn cảnh khác nhau, có thể vạch ra các đường cơ sở theo
một hay nhiều phương pháp được trù định ở các điều nói trên.
Khi
hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau, không quốc gia nào được
quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách
đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi
quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại. Tuy nhiên, quy định này không áp
dụng trong trường hợp do có những danh nghĩa lịch sử hoặc có các hoàn cảnh đặc
biệt khác cần phải hoạch định ranh giới lãnh hải của hai quốc gia một cách
khác.
1. Các đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng lãnh hải được vạch ra theo đúng các Điều 7, 9 và 10 hoặc các
ranh giới hình thành từ các điều đó và các đường hoạch định ranh giới được vạch
ra đúng theo các Điều 12 và 15, được thể hiện trên các hải đồ có tỷ lệ thích
hợp để xác định được vị trí của nó. Nếu không, thì có thể thay thế bằng một bản
kê các tọa độ địa lý các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa đã được sử dụng.
2. Quốc gia ven biển công
bố theo đúng thủ tục các hải đồ hay các bản kê các tọa độ địa lý và gửi đến
Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu chiếu.
Với
điều kiện phải chấp hành Công ước, tàu thuyền của tất cả các quốc gia, có biển hay
không có biển, đều được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải.
1. “Đi qua” là đi ở trong lãnh hải, nhằm mục đích
a) Đi ngang qua nhưng
không đi vào nội thủy, không đậu lại trong một vũng tàu hoặc một công trình
cảng ở bên ngoài nội thủy; hoặc
b) Đi vào hoặc rời khỏi
nội thủy, hoặc đậu lại hay rời khỏi một vũng tàu hay một công trình cảng trong
nội thủy.
2. Việc đi qua phải liên
tục và nhanh chóng. Tuy nhiên, việc đi qua bao gồm cả việc dừng lại và thả neo,
nhưng chỉ trong trường hợp gặp phải những sự cố thông thường về hàng hải hoặc
vì một trường hợp bất khả kháng hay mắc nạn hoặc vì mục đích cứu giúp người,
tàu thuyền hay phương tiện bay đang lâm nguy hoặc mắc nạn.
1. Việc đi qua là không
gây hại, chừng nào nó không làm phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh
của quốc gia ven biển. Việc đi qua không gây hại cần phải được thực hiện theo
đúng với các quy định của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.
2. Việc đi qua của một
tàu thuyền nước ngoài bị coi như phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh
của quốc gia ven biển, nếu như ở trong lãnh hải, tàu thuyền này tiến hành một
trong bất kỳ hoạt động nào sau đây:
a) Đe dọa hoặc dùng vũ
lục chống lại chính quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của quốc
gia ven biển hay dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc
tế đã được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc;
b) Luyện tập hoặc diễn
tập với bất kỳ kiểu loại vũ khí nào;
c) Thu nhập tình báo gây
thiệt hại cho quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;
d) Phóng đi, tiếp nhận
hay xếp lên tàu các phương tiện bay;
e) Phóng đi, tiếp nhận
hay xếp lên tàu các phương tiện quân sự;
f) Tuyên truyền nhằm làm
hại đến quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;
g) Xếp hoặc dỡ hàng hóa,
tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các luật và quy định về hải quan,
thuế khóa, y tế hoặc nhập cư của quốc gia ven biển;
h) Gây ô nhiễm cố ý và
nghiêm trọng, vi phạm Công ước;
i) Đánh bắt hải sản;
j) Nghiên cứu hay đo đạc;
k) Làm rối loạn hoạt động
của mọi hệ thống giao thông liên lạc hoặc mọi trang thiết bị hay công trình
khác của quốc gia ven biển;
l) Mọi hoạt động khác
không trực tiếp quan hệ đến việc đi qua.
Ở
trong lãnh hải, tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác buộc phải đi nổi và
phải treo cờ quốc tịch.
1. Quốc gia ven biển có
thể định ra, phù hợp với các quy định của Công ước và các quy tắc khác của pháp
luật quốc tế, các luật và quy định liên quan đến việc đi qua không gây hại ở
trong lãnh hải của mình về các vấn đề sau đây:
a) An toàn hàng hải và
điều phối giao thông đường biển;
b) Bảo vệ các thiết bị và
các hệ thống bảo đảm hàng hải và các thiết bị hay công trình khác;
c) Bảo vệ các đường giây
cáp và ống dẫn;
d) Bảo tồn tài nguyên
sinh vật biển;
e) Ngăn ngừa những sự vi
phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển liên quan đến việc đánh bắt;
f) Gìn giữ môi trường của
quốc gia ven biển và ngăn ngừa, hạn chế, chế ngự ô nhiễm môi trường;
g) Nghiên cứu khoa học
biển và đo đạc thủy văn;
h) Ngăn ngừa những sự vi
phạm các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư của quốc gia
ven biển;
2. Các luật và quy định
này không áp dụng đối với cách thiết kế, việc đóng hoặc đối với trang bị của
tàu thuyền nước ngoài, nếu chúng không có ảnh hưởng gì đến các quy tắc hay quy
phạm quốc tế được chấp nhận chung.
3. Quốc gia ven biển công
bố theo đúng thủ tục các luật và quy định này.
4. Khi thực hiện quyền đi
qua không gây hại ở trong lãnh hải tàu thuyền nước ngoài phải tuân thủ các luật
và quy định này, cũng như tất cả các quy định quốc tế được chấp nhận chung có
liên quan đến việc phòng ngừa đâm va trên biển.
1. Quốc gia ven biển khi
cần bảo đảm an toàn hàng hải có thể đòi hỏi tàu thuyền nước ngoài đi qua không
gây hại trong lãnh hải của mình phải đi theo các tuyến đường do mình ấn định và
phải tôn trọng các cách bố trí phân chia các luồng giao thông do mình quy định
nhằm điều phối việc qua lại các tàu thuyền.
2. Đặc biệt, đối với các tàu
xi-teec (navires-citernes), các tàu có động cơ chạy bằng năng lượng hại nhân và
các tàu chở các chất hay các nguyên liệu phóng xạ hoặc các chất khác vốn nguy
hiểm hay độc hại, có thể bị bắt buộc chỉ được đi theo các tuyến đường này.
3. Khi ấn định các tuyến
đường và quy định cách bố trí phân chia luồng giao thông theo điều này, quốc
gia ven biển lưu ý đến:
a) Các kiến nghị của tổ
chức quốc tế có thẩm quyền;
b) Tất cả các luồng lạch
thường được sử dụng cho hàng hải quốc tế;
c) Các đặc điểm riêng của
một số loại tàu thuyền và luồng lạch;
d) Mật độ giao thông.
4. Quốc gia ven biển ghi
rõ các tuyến đường và các cách phân chia luồng giao thông nói trên lên hải đồ
và công bố theo đúng thủ tục.
Các
tàu thuyền nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân cũng như các tàu
thuyền chuyên chở các chất phóng xạ hay các chất khác vốn nguy hiểm hay độc hại,
khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải, buộc phải mang đầy đủ
các tài liệu và áp dụng những biện pháp phòng ngừa đặc biệt theo quy định của
các điều ước quốc tế đối với loại tàu thuyền đó.
1. Quốc gia ven biển
không được cản trở quyền đi qua không gây hại của các tàu thuyền nước ngoài trong
lãnh hải, ngoài những trường hợp mà Công ước đã trù định. Đặc biệt khi áp dụng
Công ước, quốc gia ben biển không được:
a) Áp đặt cho các tàu
thuyền nước ngoài những nghĩa vụ dẫn đến việc cản trở hay hạn chế việc thực
hiện quyền đi qua không gây hại của các tàu thuyền này;
b) Phân biệt đối xử về
mặt pháp lý hay về mặt thực tế đối với các tàu thuyền chở hàng từ một quốc gia
nhất định hay đến quốc gia đó hoặc nhân danh một quốc gia nhất định.
2. Quốc gia ven biển
thông báo thích đáng mọi nguy hiểm về hàng hải của mình biết trong lãnh hải của
mình.
1. Quốc gia ven biển có
thể thi hành các biện pháp cần thiết trong lãnh hải của mình để ngăn cản mọi
việc đi qua có gây hại.
2. Đối với tàu thuyền đi
vào vùng nội thủy hay vào một công trình cảng ở bên ngoài vùng nội thủy đó,
quốc gia ven biển cũng có quyền thi hành những biện pháp cần thiết để ngăn ngừa
mọi sự vi phạm đối với các điều kiện mà tàu thuyền này buộc phải tuân theo để
được phép vào vùng nội thủy hay công trình cảng nói trên.
3. Quốc gia ven biển có
thể tạm thời đình chỉ việc thực hiện quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền
nước ngoài tại các khu vực nhất định trong lãnh hải của mình, nếu biện pháp này
là cần thiết để bảo đảm an ninh của mình, kể cả để thử vũ khí, nhưng không được
phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước
ngoài. Việc đình chỉ này chỉ có hiệu lực sau khi đã được công bố theo đúng thủ
tục.
1. Không được thu lệ phí
đối với tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải, nếu không phải vì lý do trả công
cho những dịch vụ riêng đối với những tàu thuyền này. Khi thu lệ phí đó không
được phân biệt đối xử.
1. Quốc gia ven biển
không được thực hiện quyền tài phán hình sự của mình ở trên một tàu nước ngoài
đi qua lãnh hải để tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ
vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ các
trường hợp sau đây:
a) Nếu hậu quả của vụ vi
phạm đó mở rộng đến quốc gia ven biển;
b) Nếu vị vi phạm có tính
chất phá hoại hòa bình của đất nước hay trật tự trong lãnh hải;
c) Nếu thuyền trưởng hay một
viên chức ngoại giao hoặc một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu
cầu sự giúp đỡ của các nhà đương cục địa phương hoặc
d) Nếu các biện pháp này
là cần thiết để trấn áp việc buôn lậu chất ma túy hay các chất kích thích.
2. Khoản 1 không đụng
chạm gì đến quyền của quốc gia ven biển áp dụng mọi luật pháp mà luật trong
nước mình qui định nhằm tiến hành các việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm ở
trên con tàu nước ngoài đi qua lãnh hải, sau khi rời khỏi nội thủy.
3. Trong những trường hợp
nêu ở các khoản 1 và 2, nếu thuyền trưởng yêu cầu, quốc gia ven biển phải thông
báo trước về mọi biện pháp cho một viên chức ngoại giao hay cho một viên chức
lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ và phải tạo điều kiện dễ dàng cho viên chức
ngoại giao hay viên chức lãnh sự đó tiếp xúc với đoàn thủy thủ của con tàu. Tuy
nhiên trong trường hợp khẩn cấp, việc thông báo này có thể tiến hành trong khi
các biện pháp đang được thi hành.
4. Khi xem xét có nên bắt
giữ và các thể thức của việc bắt giữ, nhà đương cục địa phương cần phải chú ý
thích đáng đến các lợi ích về hàng hải.
5. Trừ trường hợp áp dụng
phần XII hay trong trường hợp có sự vi phạm các luật và quy định được định ra
theo đúng phần V, quốc gia ven biển không được thực hiện một biện pháp nào ở
trên một con tàu nước ngoài khi nó đi qua lãnh hải nhằm tiến hành bắt giữ hay
tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vị phạm hình sự xảy ra trước khi con tàu đi
vào lãnh hải mà không đi vào nội thủy.
1. Quốc gia ven biển
không được bắt một tàu nước ngoài đang đi qua lãnh hải phải dừng lại hay thay
đổi hành trình của nó để thực hiện quyền tài phán dân sự của mình đối với một
người ở trên con tàu đó.
2. Quốc gia ven biển
không thể áp dụng các biện pháp trừng phạt hay biện pháp bảo đảm (mesures
conservatoires) về mặt dân sự đối với con tàu này, nếu không phải vì những
nghĩa vụ đã cam kết hay các trách nhiệm mà con tàu phải đảm nhận trong khi đi
qua hoặc để được đi qua vùng biển của quốc gia ven biển.
3. Khoản 2 không đụng
chạm đến quyền của quốc gia ven biển áp dụng các biện pháp trừng phạt hay bảo
đảm về mặt dân sự do luật trong nước của quốc gia này quy định đối với tàu
thuyền nước ngoài đang đậu trong lãnh hải hay đang đi qua lãnh hải, sau khi đã
rời nội thủy.
Trong
Công ước, « tàu chiến » là mọi tàu thuyền thuộc lực lượng vũ trang của một quốc
gia và mang dấu hiệu bên ngoài đặc trưng của các tàu thuyền quân sự thuộc quốc
tịch nước đó; do một sĩ quan hải quân phục vụ quốc gia đó chỉ huy, người chỉ
huy này có tên trong danh sách các sĩ quan hay trong một tài liệu tương đương;
và đoàn thủy thủ phải tuân theo các điều lệnh kỷ luật quân sự.
Nếu
một tàu chiến không tôn trọng các luật và quy định của quốc gia ven biển có
liên quan đến việc đi qua trong lãnh hải và bất chấp yêu cầu phải tuân thủ các
luật và quy định đó đã được thông báo cho họ, thì quốc gia ven biển có thể đòi
chiếc tàu đó rời khỏi lãnh hải ngay lập tức.
Quốc
gia mà tàu mang cờ chịu trách nhiệm quốc tế về mọi tổn thất hoặc về mọi thiệt hại
gây ra cho quốc gia ven biển do một tàu chiến hay bất kỳ tàu thuyền nào khác
của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại vi phạm các luật và quy
định của quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua lãnh hải hay vi phạm
các quy định của Công ước hoặc các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.
Ngoài
những ngoại lệ đã nêu ở Tiểu mục A và ở các Điều 30 và 31, không một quy định nào
của Công ước đụng chạm đến các quyền miễn trừ mà các tàu chiến và các tàu khác
của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại được hưởng.
1. Trong một vùng tiếp
giáp với lãnh hải của mình, gọi là vùng tiếp giáp, quốc gia ven biển có thể thi
hành sự kiểm soát cần thiết, nhằm:
a) Ngăn ngừa những phạm vi
đối với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư trên lãnh
thổ hay trong lãnh hải của mình;
b) Trừng trị những vi
phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh
hải của mình.
2. Vùng tiếp giáp không
thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh
hải.
1. Chế độ đi qua các eo
biển dùng cho hàng hải quốc tế mà phần này quy định không ảnh hưởng gì về bất
cứ phương diện nào khác đến chế độ pháp lý của vùng nước các eo biển này, cũng
như đến việc quốc gia ven eo biển thực hiện chủ quyền hay quyền tài phán của
mình ở các vùng nước ấy, ở đáy biển tương ứng và lòng đất dưới đáy biển, cũng
như vùng trời ở trên các vùng nước đó.
2. Các quốc gia ven eo
biển thực hiện chủ quyền hay quyền tài phán của mình trong những điều kiện do
các quy định của phần này và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định.
Không một quy định nào
của phần này được đụng chạm đến:
a) Nội thủy thuộc một eo
biển, trừ khi việc vạch ra một tuyến đường cơ sở thẳng theo đúng với phương
pháp nói ở Điều 7 đã gộp vào trong nội thủy những vùng nước trước đây không
được coi là nội thủy;
b) Chế độ pháp lý của các
vùng nước nằm ngoài lãnh hải của các quốc gia ven eo biển, dù chúng thuộc vùng
quốc tế hay thuộc biển cả;
c) Chế độ pháp lý của các
eo biển mà việc đi qua đã được quy định toàn bộ hay từng phần trong các công
ước quốc tế đặc biệt nhằm vào các eo biển này đã có từ lâu đời và vẫn đang có
hiệu lực.
Phần
này không áp dụng đối với các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế, nếu như có thể
vượt qua eo biển đó bằng một con đường ở biển cả hay một con đường qua một vùng
đặc quyền kinh tế cũng thuận tiện như thế về phương diện hàng hải và về các đặc
điểm thủy văn; về các con đường này, những phần khác tương ứng của công ước có
thể được áp dụng, kể cả các quy định liên quan đến tự do hàng hải và tự do hàng
không.
Mục
này được áp dụng đối với các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế giữa một bộ phận
của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế và giữa một bộ phận khác của
biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế.
1. Trong các eo biển nói
ở Điều 37, tất cả các tàu thuyền và phương tiện bay đều được hưởng quyền quá
cảnh mà không bị cản trở, trừ trường hợp hạn chế là quyền đó không được áp dụng
cho các eo biển do lãnh thổ đất liền của một quốc gia và một hòn đảo thuộc quốc
gia này tạo thành, khi ở ngoài khơi hòn đảo đó có một con đường đi trên biển
cả, hay có một con đường đi qua một vùng đặc quyền về kinh tế cũng thuận tiện
như thế về phương diện hàng hải và về các đặc điểm thủy văn.
2. Thuật ngữ “quá cảnh” có nghĩa là việc thực hiện, theo
đúng phần này, quyền tự do hàng hải và hàng không với mục đích duy nhất là đi
qua liên tục và nhanh chóng qua eo biển giữa một bộ phận của biển cả hoặc một
vùng đặc quyền về kinh tế và một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc
quyền về kinh tế. Tuy nhiên, đòi hỏi quá cảnh liên tục và nhanh chóng không
ngăn cấm việc đi qua eo biển để đến lãnh thổ của một quốc gia ven eo biển, đề
rời khỏi hoặc lại đến lãnh thổ đó, theo các điều kiện cho phép đến lãnh thổ của
quốc gia đó.
3. Bất kỳ hoạt động nào
không thuộc phạm vi thực hiện quyền quá cảnh qua các eo biển đều tùy thuộc vào
các quy định khác có thể áp dụng của Công ước.
1. Trong khi thực hiện
quyền quá cảnh, các tàu thuyền và phương tiện bay:
a) Đi qua hay bay qua eo
biển không chậm trễ;
b) Không được đe dọa hay
dùng vũ lực để chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của
các quốc gia ven eo biển hay dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc pháp
luật quốc tế được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc;
c) Không được có hoạt động
nào khác ngoài những hoạt động cần cho sự quá cảnh liên tục và nhanh chóng,
theo phương thức đi bình thường, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc trừ trường
hợp nguy cấp;
d) Tuân thủ các quy định
thích hợp khác của phần này.
2. Trong khi quá cảnh các
tàu thuyền tuân thủ:
a) Các quy định, thủ tục
và tập quán quốc tế đã được chấp nhận chung về mặt an toàn hàng hải, nhất là
các quy tắc quốc tế để phòng ngừa đâm va trên biển;
b) Các quy định, thủ tục
và tập quán quốc tế đã được chấp nhận chung nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự
ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra.
3. Trong khi quá cảnh,
các phương tiện bay:
a) Tôn trọng các quy định
về hàng không do Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế đề ra để áp dụng cho các
phương tiện bay dân dụng; bình thường các phương tiện bay của Nhà nước phải
tuân thủ các biện pháp an toàn do các quy định này đề ra và khi hoạt động vào
bất kỳ lúc nào, các phương tiện bay cũng phải chú ý đến an toàn hàng không.
b) Thường xuyên theo dõi
tần số điện đài mà cơ quan có thẩm quyền được quốc tế chỉ định làm nhiệm vụ
kiểm soát giao thông hàng không đã phân bổ cho, hoặc tần số quốc tế về nguy
cấp.
Trong khi quá cảnh, các
tàu thuyền nước ngoài, kể cả các tàu thuyền chuyên dùng cho nghiên cứu khoa học
biển hay cho đo đạc thủy văn, không được dùng để nghiên cứu hoặc đo đạc nếu
không được phép trước của các quốc gia ven eo biển.
1. Theo đúng phần này,
các quốc gia ven eo biển khi có nhu cầu bảo đảm an toàn cho tàu thuyền đi qua
các eo biển, có thể ấn định các tuyến đường và quy định các cách phân chia
luồng giao thông.
2. Các quốc gia nói trên,
khi hoàn cảnh đòi hỏi và sau khi đã công bố theo đúng thủ tục biện pháp này, có
thể ấn định các tuyến đường mới hay quy định các cách mới phân chia luồng giao
thông thay thế mọi tuyến đường hay mọi cách phân chia luồng giao thông đã được
ấn định hay quy định trước đó.
3. Các tuyến đường và
cách bố trí phân chia luồng giao thông cần phải phù hợp với quy định quốc tế đã
được chấp nhận chung.
4. Trước khi ấn định hay
thay thế các tuyến đường hoặc trước khi quy định hay thay thế các cách phân
chia luồng giao thông, các quốc gia ven eo biển gửi các đề nghị của mình cho tổ
chức quốc tế có thẩm quyền thông qua. Tổ chức này chỉ có thể chấp nhận các
tuyến đường và cách phân chia luồng giao thông nào đã có thể thỏa thuận với các
quốc gia ven eo biển; khi đó, các quốc gia này có thể ấn định, quy định hoặc thay
thế các tuyến đường và các cách phân chia luồng giao thông này.
5. Khi đề nghị thiết lập
trong một eo biển các tuyến đường hay cách phân chia luồng giao thông có liên
quan đến vùng nước của nhiều quốc gia ven eo biển, các quốc gia hữu quan hợp
tác với nhau để soạn thảo các đề nghị, có sự tham khảo ý kiến của tổ chức quốc
tế có thẩm quyền.
6. Các quốc gia ven eo
biển ghi rõ ràng lên các hải đồ tất cả các tuyến đường hay tất cả các cách phân
chia luồng giao thông mà mình đã thiết lập và công bố các hải đồ này theo đúng
thủ tục.
7. Trong khi quá cảnh, tàu
thuyền tôn trọng các tuyến đường và các cách phân chia luồng giao thông đã được
thiết lập theo đúng điều này.
1. Với điều kiện chấp
hành mục này, các quốc gia ven eo biển có thể ra các luật và quy định liên quan
đến việc đi qua eo biển về các vấn đề sau:
a) An toàn hàng hải và
điều phối giao thông trên biển như đã được nêu ở Điều 41;
b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường, bằng cách thi hành quy định quốc tế có thể áp dụng được
về việc trút bỏ dầu, cặn dầu và các chất độc hại trong eo biển;
c) Việc cấm đánh bắt hải
sản đối với các tàu đánh bắt hải sản; kể cả quy định việc xếp đặt các phương
tiện đánh bắt;
d) Xếp, dỡ hàng hóa, tiền
bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các luật và quy định hải quan, thuế
khóa, y tế hay nhập cư của quốc gia ven eo biển.
2. Các luật và quy định
này không được dẫn đến bất kỳ một sự phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về
mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài, việc áp dụng các luật và quy định
này không được có tác dụng ngăn cản, hạn chế hay gây trở ngại cho việc thực hiện
quyền quá cảnh như đã được xác định trong mục này.
3. Các quốc gia ven eo
biển công bổ những luật và quy định này theo đúng thủ tục.
4. Các tàu thuyền nước
ngoài khi thực hiện quyền quá cảnh qua eo biển phải tuân thủ các luật và quy
định này.
5. Trong trường hợp một tàu
hay một phương tiện bay được hưởng quyền miễn trừ về chủ quyền vi phạm các luật
và quy định này, quốc gia mà con tàu mang cờ hay quốc gia đăng ký phương tiện
bay phải chịu trách nhiệm quốc tế về mọi tổn thất hay thiệt hại có thể gây ra
cho eo biển.
Các quốc gia sử dụng một
eo biển và các quốc gia ven eo biển cần thỏa thuận hợp tác với nhau để:
a) Thiết lập và bảo dường
các thiết bị an toàn và bảo đảm hàng hải cần thiết cũng như các thiết bị khác
đặt trong eo biển dùng để làm dễ dàng cho hàng hải quốc tế, và
b) Ngăn ngừa, hạn chế và
chế ngự nạn ô nhiễm do tàu thuyền gây ra.
Các quốc gia ven eo biển
không được gây trở ngại cho việc quá cảnh và phải thông báo đầy đủ và mọi nguy
hiểm đối với hàng hải trong eo biển hoặc đối với việc bay trên eo biển mà các quốc
gia này nắm được. Việc thực hiện quyền quá cảnh không thể bị đình chỉ.
1. Chế độ đi qua không
gây hại được nêu ở Mục 3 của phần II được áp dụng trong các eo biển dùng cho
hàng hải quốc tế:
a) Nằm ngoài phạm vi áp
dụng của chế độ quá cảnh theo Điều 38, khoản 1; hoặc
b) Nối liền lãnh hải của
một quốc gia với một bộ phận của biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế của
một quốc gia khác.
2. Việc thực hiện quyền
đi qua không gây hại trong các eo biển không thể bị đình chỉ.
Trong công ước:
a) “Quốc gia quần đảo” (Etat Archipel) là một quốc gia hoàn toàn được
cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có khi bởi một số hòn đảo khác nữa.
b) “Quần đảo” (Archipel) là một tổng thể các đảo, kể cả các bộ phận của
các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan
với nhau đến mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa lý, kinh tế
và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử.
1. Một quốc gia quần đảo
có thể vạch các đường cơ sở thẳng của quần đảo nối liền các điểm ngoài cùng của
các đảo xa nhất và các bãi đá lúc chìm lúc nổi của quần đảo, với điều kiện là
tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ
lệ diện tích nước đó với đất, kể cả vành đai san hô, phải ở giữa tỷ lệ số 1/1
và 9/1.
2. Chiều dài của các
đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý; tuy nhiên có thể tối đa 3% của tổng
số các đường cơ sở bao quanh một quần đảo nào đó có một chiều dài lớn hơn nhưng
không quá 125 hải lý.
3. Tuyến các đường cơ sở
này không được tách xa rõ rệt đường bao quanh chung của quần đảo.
4. Các đường cơ sở không
thể kéo dến hay xuất phát từ các bãi cạn lúc chìm lúc nổi, trừ trường hợp tại
đó có xây đặt các đèn biển hay các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt
biển hoặc trừ trường hợp toàn bộ hay một phần bãi cạn ở cách hòn đảo gần nhất
một khoảng cách không vượt quá chiều rộng lãnh hải.
5. Một quốc gia quần đảo
không được áp dụng phương pháp kẻ các đường cơ sở khiến cho các lãnh hải của
một quốc gia khác bị tách rời với biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế.
6. Nếu một phần của vùng
nước quần đảo của một quốc gia quần đảo nằm giữa hai mảnh lãnh thổ của một quốc
gia kế cận, thì các thuyền và mọi lợi ích chính đáng mà quốc gia kế cận này vẫn
được hưởng theo truyền thống ở trong các vùng nước nói trên, cũng như tất cả
các quyền nảy sinh từ các điều ước được ký kết giữa hai quốc gia, vẫn tồn tại
và vẫn được tôn trọng.
7. Để tính toán tỷ lệ
diện tích các vùng nước so với diện tích phần đất đã nêu ở khoản 1, các vùng
nước trên trong các bãi đá ngầm bao quanh các đảo và vành đai san hô, cũng như
mọi phần của một nền đại dương có sườn dốc đất đứng, hoàn toàn hay gần như hoàn
toàn do một chuỗi đảo đá vôi hay một chuỗi các mỏm đá lúc chìm lúc nổi bao
quanh, có thể được coi như là một bộ phận của đất.
8. Các đường cơ sở được
vạch ra theo đúng điều này phải được ghi trên hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác
định được vị trí. Bản kê tọa độ địa lý của các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc
địa được sử dụng có thể thay thế cho các bản đồ này.
9. Quốc gia quần đảo công
bố theo đúng thủ tục các bản đồ hoặc bảng liệt kê tọa độ địa lý và gửi đến Tổng
thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu chiểu.
Chiều rộng của lãnh hải,
vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa được tính từ cách
đường cơ sở quần đảo theo đúng Điều 47.
1. Chủ quyền của quốc gia
quần đảo mở rộng ra vùng nước ở phía trong đường cơ sở quần đảo được vạch ra theo
đúng Điều 47, được gọi là vùng nước quần đảo (eaux archipélagiques), bất kể
chiều sâu và khoảng cách xa bờ của chúng thế nào.
2. Chủ quyền này được mở rộng
đến vùng trời trên vùng nước quần đảo, cũng như đến đáy vùng nước đó và lòng
đất tương ứng và đến các tài nguyên ở đó.
3. Chủ quyền này được
thực hiện theo các điều kiện nêu trong phần này.
4. Chế độ đi qua vùng nước
quần đảo do phần này quy định không đụng chạm về bất kỳ một phương diện nào
khác đến chế độ pháp lý của vùng nước quần đảo, kể cả các đường hàng hải, đến
việc quốc gia quần đảo thực hiện chủ quyền của mình ở vùng nước đó, ở vùng trời
phía trên, đáy nước vùng đó và lòng đất tương ứng cũng như đối với các tài
nguyên ở đó.
Ở phía trong vùng nước quần
đảo, quốc gia quần đảo có thể vạch những đường khép kín để hoạch định ranh giới
nội thủy của mình theo đúng các Điều 9, 10, và 11.
1. Không phương hại đến
Điều 49, các quốc gia quần đảo tôn trọng các điều ước hiện hành đã được ký kết
với các quốc gia khác và thừa nhận các quyền đánh bắt hải sản truyền thống và những
hoạt động chính đáng của những quốc gia kế cận trong một số khu vực thuộc vùng
nước quần đảo và quốc gia quần đảo. Các điều kiện và thể thức thực hiện các
quyền và các hoạt động này, kể cả tính chất, phạm vi của chúng và cả khu vực
thực hiện các quyền và các hoạt động nói trên, được xác định theo yêu cầu của
bất cứ quốc gia nào trong các quốc gia hữu quan qua các điều ước tay đôi được
ký kết giữa các quốc gia đó. Các quyền này không được chuyển nhượng hay chia sẻ
cho quốc gia thứ ba hay cho các công dân của các quốc gia ấy.
2. Các quốc gia quần đảo tôn
trọng các dây cáp ngầm hiện có của những quốc gia khác đặt và đi quan vùng nước
của quốc gia quần đảo mà không đụng đến bờ biển của mình. Các quốc gia quần đảo
cho phép bảo dưỡng và thay thế các đường dây cáp này sau khi họ đã được thông
báo trước về vị trí của chúng và về những công việc bảo dưỡng hay thay thế dự
định tiến hành.
1. Với điều kiện tuân thủ
Điều 53 và không phương hại đến Điều 50, tàu thuyền của tất cả các quốc gia đều
được hưởng quyền đi qua không gây hại trong vùng nước quần đảo đã được quy định
ở Mục 3 phần II.
2. Quốc gia quần đảo có
thể tạm thời đình chỉ việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài trong
các khu vực nhất định thuộc vùng nước quần đảo của mình, nếu biện pháp này là
cần thiết để đảm bảo an ninh của nước mình, nhưng không có sự phân biệt đối xử
nào về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài. Việc đình
chỉ này chỉ có hiệu lực sau khi đã được công bố theo đúng thủ tục.
1. Trong các vùng nước
quần đảo và lãnh hải tiếp liền, quốc gia quần đảo có thể ấn định các đường hàng
hải và các đường hàng không ở vùng trời phía trên các đường này để các tàu
thuyền và phương tiện bay nước ngoài được đi qua nhanh chóng và liên tục.
2. Tất cả các tàu thuyền
và phương tiện bay được hưởng quyền đi qua quần đảo theo các tuyến đường hàng
hải và các đường hàng không đó.
3. “Đi qua vùng nước quần
đảo” là việc các tàu thuyền và phương tiện bay thực hiện không bị cản trở, theo
phương thức hàng hải, hàng không bình thường và theo đúng Công ước, các quyền
hàng hải và hàng không của mình, với mục đích duy nhất là quá cảnh liên tục và
nhanh chóng giữa một điểm của biển cả hay một vùng đặc quyền kinh tế.
4. Các đường hàng hải và
các đường hàng không đi qua các vùng nước quần đảo và lãnh hải tiếp liền hoặc
vùng trời phía trên phải bao gồm tất cả các con đường thường dùng cho hàng hải
quốc tế trong vùng nước quần đảo và vùng trời phía trên; các đường hàng hải cần
theo đúng tất cả các luồng lạch thường dùng cho hàng hải, tất nhiên, không cần
phải thiết lập nhiều con đường thuận tiện như nhau giữa một điểm vào và một
điểm ra nào đó.
5. Các đường hàng hải và
hàng không này được xác định qua hàng loạt các đường trục liên tục nối liền các
điểm vào với các điểm ra của chúng. Trong quá trình đi qua các tàu thuyền và
phương tiện bay không được đi chệch các đường trục này quá 25 hải lý, tất
nhiên, các tàu thuyền và phương tiện bay này không được đi cách bờ một khoảng cách
dưới 1/10 khoảng cách giữa những điểm gần nhất của các đảo nằm dọc theo một con
đường.
6. Quốc gia quần đảo khi ấn
định các đường hàng hải theo đúng điều này cũng có thể quy định các cách phân
chia luồng giao thông nhằm bảo đảm an toàn cho các tàu thuyền sử dụng các luồng
lạch hẹp ở bên trong các con đường này.
7. Khi hoàn cảnh đòi hỏi,
quốc gia quần đảo, sau khi đã công bố theo đúng thủ tục, có thể ấn định những
đường hàng hải mới hay quy định cách bố trí phân chia luồng giao thông mới để
thay thế cho mọi con đường hay mọi cách phân chia luồng giao thông do quốc gia
đó đã thiết lập từ trước.
8. Các đường hàng hải và
cách phân chia luồng giao thông đó phải phù hợp với quy định quốc tế được chấp
nhận chung.
9. Khi ấn định hay thay
thế các đường hàng hải hoặc khi quy định hay khi thay thế các cách bố trí phân
luồng giao thông, quốc gia quần đảo gửi các đề nghị của mình cho tổ chức quốc
tế có thẩm quyền để được chấp nhận. Tổ chức quốc tế này chỉ có thể được chấp
thuận các đường hàng hải và các cách bố trí phân chia luồng giao thông mà họ đã
có thể thỏa thuận với quốc gia quần đảo; khi đó, quốc gia quần đảo có thể ấn
định, quy định hay thay thế các đường hàng hải và các cách phân chia luồng giao
thông đó.
10. Quốc gia quần đảo ghi
rõ ràng lên các hải đồ được công bố theo đúng thủ tục các đường trục của các
đường hàng hải mà quốc gia đó ấn định và các cách phân chia luồng giao thông mà
quốc gia đó quy định.
11. Khi đi qua vùng quần
đảo, các tàu thuyền tôn trọng các đường hàng hải và các cách chia phân luồng
giao thông được thiết lập theo đúng điều này.
12. Nếu quốc gia quần đảo
không ấn định các đường hàng hải hay các đường hàng không thì quyền đi qua vùng
nước quần đảo có thể thực hiện bằng cách sử dụng các con đường thường dùng cho
hàng hải và hàng không quốc tế.
Các Điều 39, 40, 42, 44
được áp dụng Mutatis mutandis (với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho
việc đi qua vùng quần đảo.
Vùng
đặc quyền về kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với
lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần này, theo đó các
quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các quốc
gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh.
1. Trong vùng đặc quyền
về kinh tế, quốc gia ven biển có:
a) Các quyền thuộc chủ
quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên,
sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng
đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác
vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và
gió.
b) Quyền tài phán theo
đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc:
i. Lắp đặt và sử dụng các
đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;
ii. Nghiên cứu khoa học
về biển;
iii. Bảo vệ và gìn giữ
môi trường biển;
c) Các quyền và các nghĩa
vụ khác do Công ước quy định.
2. Trong vùng đặc quyền về
kinh tế, khi thực hiện các quyền và làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước,
quốc gia ven biển phải tính đến các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác và
hành động phù hợp với Công ước.
3. Các quyền có liên quan
đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nêu trong điều này được thực hiện theo
đúng phần VI.
Vùng đặc
quyền về kinh tế không được mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải.
1. Trong vùng đặc quyền về
kinh tế, tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển, trong những điều
kiện trong những quy định thích hợp của Công ước trù định, được hưởng các quyền
tự do hàng hải và hàng không, quyền tự do đặt dây cáp ngầm nêu ở Điều 87, cũng
như quyền tự do sử dụng biển vào những mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và
gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do này và phù hợp với các quy định
khác của Công ước, nhất là những khuôn khổ việc khai thác các tàu thuyền,
phương tiện bay và dây cáp, ống dẫn ngầm.
2. Các Điều từ 88 đến
115, cũng như các quy tắc thích hợp khác của pháp luật quốc tế, được áp dụng ở
vùng đặc quyền kinh tế trong chừng mực mà chúng không mâu thuẫn với phần này.
3. Trong vùng đặc quyền về
kinh tế, khi thực hiện các quyền và làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước,
các quốc gia phải tính đến các quyền và các nghĩa vụ của quốc gia ven biển và
tôn trọng các luật và quy định mà quốc gia ven biển đã ban hành theo đúng các quy
định của Công ước và trong chừng mực mà các luật và quy định đó không mâu thuẫn
với phần này và với các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.
Trong
những trường hợp Công ước không quy định rõ các quyền hay quyền tài phán trong
các vùng đặc quyền về kinh tế cho quốc gia ven biển hay cho các quốc gia khác
và ở đó có xung đột giữa lợi ích của quốc gia ven biển với lợi ích của một hay
nhiều quốc khác thì sự xung đột này phải được giải quyết trên cơ sở công bằng
và có chú ý đến tất cả mọi hoàn cảnh thích đáng, có tính đến tầm quan trọng của
các lợi ích có liên quan đó đối với các bên tranh chấp và đối với toàn bộ cộng
đồng quốc tế.
1. Trong vùng đặc quyền về
kinh tế, quốc gia ven biển có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy
định việc xây dựng, khai thác và sử dụng:
a) Các đảo nhân tạo;
b) Các thiết bị và công
trình dùng vào các mục đích được trù định ở Điều 56 hoặc các mục đích kinh tế
khác;
c) Các thiết bị và công
trình có thể gây trở ngại cho việc thực hiện các quyền của quốc gia ven biển
trong vùng.
2. Quốc gia ven biển có
quyền tài phán đặc biệt đối với các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công
trình đó, kể cả về mặt các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế, an ninh
và nhập cư.
3. Việc xây dựng các đảo
nhân tạo, thiết bị và công trình đó phải được thông báo theo đúng thủ tục, và
việc duy trì các phương tiện thường trực để báo hiệu sự có mặt của các đảo,
thiết bị và công trình nói trên cần được bảo đảm. Các thiết bị hay công trình
đã bỏ hoặc không dùng đến nữa cần được tháo dỡ để đảm bảo an toàn hàng hải, có
tính đến những quy phạm quốc tế đã được chấp nhận chung do tổ chức quốc tế có
thẩm quyền đặt ra về mặt đó. Khi tháo dỡ phải tính đến việc đánh bắt hải sản, bảo
vệ môi trường biển, các quyền và các nghĩa vụ của quốc gia khác. Cần thông báo
thích đáng về vị trí, kích thước và độ sâu của những phần còn lại của một thiết
bị hoặc công trình chưa được tháo dỡ hoàn toàn.
4. Quốc gia ven biển, nếu
cần, có thể lập ra xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị hoặc công trình đó
những khu vực an toàn với kích thước hợp lý; trong các khu vực đó, quốc gia ven
biển có thể áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo đảm an toàn hàng hải, cũng
như an toàn của các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình đó.
5. Quốc gia ven biển ấn
định chiều rộng của những khu vực an toàn có tính đến các quy phạm quốc tế có thể
áp dụng được. Các khu vực an toàn này được xác định sao cho đáp ứng một cách
hợp lý với tính chất và chức năng của các đảo nhân tạo, các thiết bị và các
công trinh, và không thể mở rộng ra một khoảng cách quá 500m xung quanh các đảo
nhân tạo, các thiết bị và các công trình, tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng
của các đảo nhân tạo, thiết bị và các công trình dó, trừ ngoại lệ do các vi
phạm của quốc tế đã được thừa nhận chung cho phép hoặc tổ chức quốc tế có thẩm
quyền kiến nghị. Phạm vi của khu vực an toàn được thông báo theo đúng thủ tục.
6. Tất cả các tàu thuyền
phải tôn trọng các khu vực an toàn đó và tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế được
chấp nhận chung liên quan đến hàng hải trong khu vực của các đảo nhân tạo, các
thiết bị, các công trình và các khu vực an toàn.
7. Không được xây dựng
những đảo nhân tạo, thiết bị hoặc công trình, không được thiết lập các khu vực
an toàn xung quanh các đảo, thiết bị, công trình đó khi việc đó có nguy cơ gây
trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho
hàng hải quốc tế.
8. Các đảo nhân tạo, các
thiết bị và công trình không được hưởng quy chế của các đảo. Chúng không có
lãnh hải riêng và sự có mặt của chúng không có tác động gì đối với việc hoạch
định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế hoặc thềm lục địa.
1. Quốc gia ven biển ấn
định khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được đối với các tài nguyên sinh vật
ở trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
2. Quốc gia ven biển dựa
vào các số liệu khoa học đáng tin cậy nhất mà mình có, thi hành các biện pháp
thích hợp về bảo tồn và quản lý nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh
vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá
mức. Quốc gia ven biển và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân
khu vực, khu vực hay thế giới, hợp tác với nhau một cách thích hợp để thực hiện
mục đích này.
3. Các biện pháp đó cũng
nhằm để duy trì hay khôi phục các đàn (stocks) hải sản được khai thác ở mức bảo
đảm đạt năng suất ổn dịnh tối đa, có tính đến các yếu tố sinh thái và kinh tế
thích đáng, kể cả các nhu cầu kinh tế của tập thể ven bờ sống về nghề đánh bắt
hải sản và các nhu cầu riêng của các quốc gia đang phát triển, và có tính dến
các phương thức đánh bắt, đến quan hệ hỗ tương giữa các đàn (stocks) và đến tất
cả các quy phạm quốc tế tối thiểu thường được kiến nghị ở cấp phân khu vực, khu
vực hay thế giới.
4. Khi áp dụng các biện
pháp đó, quốc gia ven biển chú ý đến tác động của chúng đối với các loài quần
hợp với các loài được khai thác hoặc phụ thuộc vào các loài đó để duy trì hoặc
khôi phục các đàn (stocks) của những loài quần hợp hay phụ thuộc này ở một mức
độ làm việc sinh sản của chúng khỏi nguy cơ bị tổn hại nghiêm trọng.
5. Các thông tin khoa học
có thể sử dụng, các số liệu thống kê liên quan đến việc đánh bắt và đến sức
đánh bắt và các số liệu khác liên quan đến việc bảo tồn các đàn (stocks) cá
được phổ biến và trao đổi đều đặn qua trung gian của các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền, các tổ chức phân khu vực hoặc thế giới và khi có điều kiện thì tiến
hành với sự tham gia của tất cả các quốc gia hữu quan, nhất là các quốc gia có
công dân được phép đánh bắt trong vùng đặc quyền về kinh tế.
1. Quốc gia ven biển xác
định mục tiêu là tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác tối ưu các tài
nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế mà không phương hại đến Điều 61.
2. Quốc gia ven biển xác
định khả năng của mình trong việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng
đặc quyền về kinh tế. Nếu khả năng khai thác đó thấp hơn tổng khối lượng đánh
bắt có thể chấp nhận thì quốc gia ven biển cho phép các quốc gia khác, qua điều
ước hoặc các thỏa thuận khác và theo đúng các thể thức, điều kiên, các luật và
quy định nói ở khoản 4, khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt; khi
làm như vậy, cần đặc biệt quan tâm đến các Điều 69 và 70 nhất là quan tâm đến
các quốc gia đang phát triển nói trong các điều đó.
3. Khi đồng ý cho các
quốc gia khác vào hoạt động trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình theo điều
này, quốc gia ven biển tính đến tất cả các yếu tố thích đáng, trong đó có: tấm
quan trọng của các tài nguyên sinh vật thuộc khu vực đối với nền kinh tế và đối
với các lợi ích quốc gia khác của nước mình; các Điều 69 và 70, các nhu cầu của
các quốc gia đang phát triển trong khu vực hay phân khu vực về vấn đề khai thác
một phần của số dư, và sự cần thiết phải giảm bớt đến mức tối thiểu những rối
loạn kinh tế trong các quốc gia nào có những công dân thường đánh bắt hải sản ở
trong khu vực hoặc đã đóng góp nhiều vào công tác tìm kiếm và thống kê các đàn
(stocks) hải sản.
4. Công dân của các quốc
gia khác khi tiến hành đánh bắt trong vùng đặc quyền về kinh tế phải tuân thủ
theo các biện pháp bảo tồn và các thể thức, các điều kiện khác được đề ra trong
các luật và quy định của quốc gia ven biển. Các luật và quy định đó phải phù
hợp với Công ước và đặc biệt có thể đề cập các vấn đề sau đây:
a) Việc cấp giấy phép cho
ngư dân hay tàu thuyền và phương tiện đánh bắt, kể cả việc nộp thuế hay mọi
khoản phải trả khác, trong trường hợp đối với các quốc gia ven biển đang phát
triển, có thể là một sự đóng góp thích đáng vào ngân sách, vào việc trang bị và
vào sự phát triển kỹ thuật của công nghiệp đánh bắt hải sản;
b) Chỉ rõ các chủng loại
cho phép đánh bắt và ấn định tỉ lệ phần trăm, hoặc là đối với các đàn (stocks)
hay các nhóm đàn hải sản riêng biệt hoặc đối với số lượng đánh bắt của từng
chiếc tàu trong một khoảng thời gian nhất định, hoặc là đối với số lượng đánh
bắt của các công dân của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định;
c) Quy định các mùa vụ và
các khu vực đánh bắt, kiểu, cỡ và số lượng các phương tiện đánh bắt, cũng như
kiểu, cỡ và số lượng tàu thuyền đánh bắt có thể được sử dụng;
d) Ấn định tuổi và cỡ cá
và các sinh vật khác có thể được đánh bắt;
e) Các thông tin mà tàu
thuyền đánh bắt phải báo cáo, đặc biệt là những số liệu thống kê liên quan đến
việc đánh bắt và sức đánh bắt và thông báo vị trí cho các tàu thuyền;
f) Nghĩa vụ tiến hành,
với sự cho phép và dưới sự kiểm soát của quốc gia ven biển, các chương trình
nghiên cứu này, kể cả việc lấy mẫu các thứ đánh bắt được, nơi nhận các mẫu và
việc thông báo các số liệu khoa học có liên quan;
g) Việc quốc gia ven biển
đặt các quan sát viên hay thực tập sinh trên các tàu thuyền đó;
h) Bốc dỡ toàn bộ hay một
phần các sản phẩm đánh bắt được của các tàu thuyền đó ở các cảng của quốc gia
ven biển;
i) Các thể thức và điều
kiện liên quan đến các xí nghiệp liên doanh hoặc các hình thức hợp tác khác;
j) Các điều kiện cần
thiết về mặt đào tạo nhân viên, về chuyển giao kỹ thuật trong lĩnh vực đánh bắt
hải sản, kể cả việc đẩy mạnh khả năng nghiên cứu nghề cá của quốc gia ven biển;
k) Các biện pháp thi
hành.
5. Quốc gia ven biển phải
thông báo theo đúng thủ tục các luật và quy định mà mình ban hành về mặt bảo
tồn quản lý.
1. Khi cùng một đàn
(stocks) cá hoặc những đàn (stocks) các loài quần hợp ở trong vùng đặc quyền về
kinh tế của nhiều quốc gia ven biển, các quốc gia này cố gắng, trực tiếp hoặc
qua trung gian của các tổ chức phân khu vực hay khu vực thích hợp, thỏa thuận
với nhau về các biện pháp cần thiết nhằm phối hợp hoặc bảo đảm việc bảo tồn và
phát triển các đàn cá đó mà không phương hại đến các quy định khác của phần
này.
2. Khi cùng một đàn cá
hoặc những đàn các loài quần hợp đồng thời ở trong vùng đặc quyền về kinh tế và
ở trong một khu vực tiếp liền với vùng đó, quốc gia ven biển và các quốc gia
khác khai thác các đàn này ở trong khu vực tiếp liền cố gắng trực tiếp hoặc qua
trung gian của các tổ chức phân khu vực hay khu vực thích hợp, thỏa thuận với
nhau về các biện pháp cần thiết để bảo tồn các đàn cá này trong khu vực tiếp
liền.
1. Quốc gia ven biển và các
quốc gia khác có công dân chuyên đánh bắt trong khu vực những loài cá di cư xa
ghi ở bảng danh mục của Phụ lục I, cần trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ
chức quốc tế thích hợp, hợp tác với nhau nhằm bảo đảm việc bảo tồn các loài cá
nói trên và đẩy mạnh việc khai thác tối ưu các loài cá đó trong toàn bộ khu
vực, ở trong cũng như ở ngoài vùng đặc quyền về kinh tế. Trong những khu vực
không có tổ chức quốc tế thích hợp, thì quốc gia ven biển và các quốc gia khác
có công dân khai thác các loài cá đó trong khu vực, hợp tác với nhau để lập ra
một tổ chức như thế và tham gia vào khu vực của tổ chức này.
2. Khoản 1 được áp dụng
thêm vào các quy định khác của phần này.
Không một quy định nào
của phần này hạn chế quyền của một quốc gia ven biển cấm, hạn chế hay quy định
việc khai thác các loài có vú ở biển chặt chẽ hơn những quy định của phần này,
cũng như hạn chế thẩm quyền của một tổ chức quốc tế về việc này nếu có. Các
quốc gia hợp tác với nhau nhằm bảo đảm việc bảo vệ các loài có vú ở biển và đặc
biệt là qua trung gian của các tổ chức quốc tế thích hợp, tìm mọi cách để bảo
vệ, quản lý và nghiên cứu loài cá voi.
1. Các quốc gia có các
dòng sông mà ở đó các đàn cá (Poissons anadromes) vào sinh sản là những nước
đầu tiên phải quan tâm đến các đàn cá này và phải chịu trách nhiệm trước hết về
loại cá này.
2. Quốc gia nguồn gốc của
các đàn cá vào sông sinh sản cần chăm lo đến việc bảo tồn các đàn cá đó bằng
việc thi hành những biện pháp thích hợp quy định việc đánh bắt trong tất cả các
vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài của vùng đặc quyền về kinh tế, cũng như
việc đánh bắt nói ở khoản 3, điểm
b. Quốc gia nguồn gốc có
thể xác định tổng số được phép đánh bắt các loài cá được sinh sản ra từ các
dòng sông của họ, sau khi đã tham khảo các quốc gia nói trong các khoản 3 và 4
đang khai thác các đàn cá đó.
3. a) Chỉ có thể đánh bắt
các đàn cá vào sông sinh sản trong các vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài
của các vùng đặc quyền về kinh tế, trừ các trường hợp mà việc áp dụng quy định
này có thể dẫn đến những rối loạn kinh tế cho một quốc gia không phải là quốc gia
nguồn gốc. Đối với việc đánh bắt bên ngoài ranh giới phía ngoài của các vùng
đặc quyền về kinh tế, các quốc gia hữu quan cần tham khảo ý kiến của nhau để
thỏa thuậ về các thể thức và điều kiện của việc đánh bắt này, nhưng phải tính
đến các đòi hỏi của việc bảo tồn và các nhu cầu của quốc gia nguồn gốc về đàn
(stoscks) cá đó.
b) Quốc gia nguồn gốc góp
phần giảm bớt đến mức tối thiểu những rối loạn về kinh tế trong các quốc gia
khác đang tiến hành khai thác các loài cá này bằng cách tính đến việc đánh bắt
bình thường của các quốc gia này và đến các cách mà họ khai thác đàn cá đó,
cũng như đến tất cả các khu vực mà các đàn cá đó được khai thác.
c) Các quốc gia nói ở
điểm b tham gia qua sự thỏa thuận với các quốc gia nguồn gốc, vào những biện pháp
bảo đảm khôi phục các đàn cá vào sông sinh sản, đặc biệt là bằng cách đóng góp
tài chính cho các biện pháp này; các quốc gia đó được quốc gia nguồn gốc quan
tâm đặc biệt trong việc khai thác các loài cá được sinh sản ra từ các dòng sông
của mình.
d) Việc áp dụng quy định
liên quan đến các đàn cá vào sông sinh sản ở ngoài vùng đặc quyền về kinh tế
được bảo đảm qua sự thỏa thuận giữa quốc gia nguồn gốc và các quốc gia hữu quan
khác.
4. Khi các đàn cá vào
sông sinh sản di cư đến các vùng nước hoặc đi qua các vùng nước nằm bên trong
ranh giới ngoài của vùng đặc quyền về kinh tế của một quốc gia không phải là
quốc gia nguồn gốc, quốc gia này hợp tác với quốc gia nguồn gốc nhằm bảo tồn và
quản lý các đàn cá đó.
5. Quốc gia nguồn gốc của
các đàn cá vào sông sinh sản và các quốc gia khác đánh bắt cá này ký kết các
thỏa thuận nhằm áp dụng điều này, nếu có thể được thì qua trung gian của các tổ
chức khu vực.
1. Một quốc gia ven biển
mà trong vùng nước của mình loài cá ra biển sinh sản sống phần lớn cuộc đời của
chúng chịu trách nhiệm quản lý chúng và chăm lo đến việc các loài cá này vào
hoặc ra khỏi vùng nước đó.
2. Chỉ được khai thác các
loài cá ra biển sinh sản trong những vùng nước bên trong các ranh giới ngoài
của các vùng đặc quyền về kinh tế. Trong các vùng đặc quyền về kinh tế, việc
khai thác được tiến hành theo điều này và các quy định khác của Công ước liên
quan đến việc đánh bắt trong các vùng này.
3. Trong những trường hợp
mà các loài cá ra biển sinh sản, dù đã đến hay chưa đến thời kỳ sinh sản, di cư
qua vùng đặc quyền về kinh tế của một quốc gia khác thì việc quản lý các loài
cá này, kể cả việc khai thác, được quy định qua thỏa thuận giữa quốc gia nói ở
khoản 1 và quốc gia hữu quan kia. Thỏa thuận này cần được bảo đảm việc quản lý
hợp lý các loài cá được xem xét và có tính đến trách nhiệm của quốc gia nói ở
khoản 1 về việc bảo tồn các loài này.
Phần này không áp dụng
đối với các loài định cư, như đã được quy định ở Điều 77, khoản 4.
1. Một quốc gia không có
biển có quyền tham gia, theo một thể thức công bằng, khai thác một phần thích hợp
số dư các tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc
gia ven biển trong cùng một phân khu vực hoặc khu vực, có tính đến các đặc điểm
kinh tế và địa lý thích đáng của tất cả các quốc gia hữu quan và theo đúng điều
này và các Điều 61 và 62.
2. Các điều kiện và các
thể thức của việc tham gia này được các quốc gia hữu quan ấn định thông qua
thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực, đặc biệt tính đến:
a) Sự cần thiết phải tránh
mọi động tác có hại cho cộng đồng những người đánh bắt hoặc cho công nghiệp
đánh bắt của các quốc gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia không
có biển, theo đúng điều này, tham gia hoặc có quyền tham gia, theo các thỏa
thuận tay đôi, phân phu vực hay khu vực hiện hành, vào việc khai thác các tài
nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển
khác;
c) Mức độ các quốc gia
không có biển khác hoặc các quốc gia bất lợi về địa lý tham gia vào việc khai
thác các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế cuả quốc gia ven
biển và sự cần thiết tránh cho quốc gia ven biển nào đó hoặc cho khu vực nào đó
của quốc gia này một gánh nặng đặc biệt;
d) Những nhu cầu thực
phẩm của dân cư ở các quốc gia được xem xét.
3. Khi khả năng đánh bắt
của một quốc gia ven biển cho phép một mình quốc gia đó có thể đánh bắt được
hầu như toàn bộ khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận, được ấn định cho việc
khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình thì
quốc gia đó và các quốc gia hữu quan khác hợp tác với nhau để ký kết các thỏa
thuận tay đôi, phân khu vực hoặc khu vực một cách công bằng cho phép các quốc
gia đang phát triển không có biển trong cùng khu vực hay phân khu vực đó tham
gia một cách thích hợp vào việc khai thác những tài nguyên sinh vật của các
vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển thuộc phân khu vực hay khu
vực, có tính đến các hoàn cảnh và điều kiện thỏa đáng đối với tất cả các bên.
Để áp dụng điều quy định này, cũng cần tính đến các yếu tố đã nêu ở khoản 2.
4. Các quốc gia phát
triển không có biển chỉ có quyền tham gia khai thác các tài nguyên sinh vật
theo điều này, trong các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển
phát triển ở trong cùng phân khu vực hay khu vực, có tính đến chừng mực mà quốc
gia ven biển, khi cho các quốc gia khác vào khai thác tài nguyên sinh vật trong
vùng đặc quyền kinh tế của mình, đã xem xét sự cần thiết phải giảm đến mức tối
thiểu những tác hại đối với cộng đồng những người đánh bắt cũng như những rối
loạn kinh tế trong các quốc gia có công dân vẫn thường tiến hành việc đánh bắt
trong vùng.
5. Các quy định nói trên
được áp dụng không phương hại đến các thỏa thuận được ký kết nếu có trong các
phân khu vực hay khu vực, mà ở đó các quốc gia ven biển có thể dành cho các
quốc gia không có biển ở cùng phân khu vực hay khu vực đó những quyền ngang
nhau, hoặc ưu tiên để khai thác các tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền về
kinh tế của mình.
1. Các quốc gia bất lợi
về địa lý có quyền tham gia, theo một thể thức công bằng, vào việc khai thác
một phần thích hợp số dư của những tài nguyên sinh vật trong các vùng đặc quyền
về kinh tế của các quốc gia ven biển ở cùng phân khu vực hay khu vực, có tính
đến các đặc điểm kinh tế và địa lý thích đáng của tất cả các quốc gia hữu quan
và theo đúng điều này và các Điều 61 và 62.
2. Trong phần này, thuật
ngữ “quốc gia bất lợi về địa lý” có nghĩa là các quốc gia ven biển, kể cả các
quốc gia ở ven bờ một biển kín hoặc nửa kín, mà vị trí địa lý của họ làm cho họ
phải lệ thuộc vào việc khai thác những tài nguyên sinh vật ở các vùng đặc quyền
về kinh tế của các quốc gia khác trong phân khu vực hoặc khu vực để có đủ cá
dùng làm thực phẩm cung cấp cho dân cư hay một bộ phận dân cư của họ, cũng như
các quốc gia ven biển không thể có một vùng đặc quyền kinh tế riêng.
3. Các điều kiện và thể thức
của việc tham gia đó được các quốc gia hữu quan ấn định thông qua con đường
thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực, đặc biệt có tính đến:
a) Sự cần thiết phải
tránh mọi tác hại cho cộng đồng những người đánh bắt hay cho công nghiệp đánh
bắt của các quốc gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia bất
lợi về địa lý, theo đúng điều này, tham gia hoặc có quyền tham gia theo các
thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực hiện hành, vào việc khai thác các
tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển
khác;
c) Mức độ các quốc gia
bất lợi về địa lý khác và các quốc gia không có biển tham gia vào việc khai
thác tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia ven biển và
sự cần thiết tránh cho quốc gia ven biển nào đó hoặc cho khu vực nào đó của
quốc gia ấy phải chịu một gánh nặng đặc biệt;
d) Những nhu cầu về thực
phẩm của dân cư ở các quốc gia được xem xét.
4. Khi khả năng đánh bắt
của một quốc gia ven biển cho phép một mình quốc gia đó có thể đánh bắt được
hầu như toàn bộ khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận, được ấn định cho việc
khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình,
quốc gia đó và các quốc gia hữu quan khác hợp tác với nhau để ký kết các thỏa
thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực một cách công bằng, cho phép các quốc
gia đang phát triển bất lợi về địa lý trong cùng một phân khu vực hay khu vực
đó tham gia một cách thích hợp vào việc khai thác những tài nguyên sinh vật của
các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển trong phân khu vực hay
khu vực, có tính đến các hoàn cảnh và các điều kiện thỏa đáng đối với tất cả
các bên. Để áp dụng điều quy định này, cũng cần tính đến các yếu tố đã nêu ở
khoản 3.
5. Các quốc gia phát
triển bất lợi về địa lý chỉ có quyền tham gia vào việc khai thác tài nguyên sinh
vật, theo điều này, trong các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia phát
triển ở cùng một phân khu vực hay khu vực, có tính đến chừng mực mà quốc gia
ven biển, trong khi cho các quốc gia khác vào khai thác tài nguyên sinh vật
trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, đã xem xét sự cần thiết phải giảm đến
mức tối thiểu những tác hại đối với cộng đồng những người đánh bắt, cũng như
những rối loạn kinh tế trong các quốc gia có công dân vẫn thường tiến hành đánh
bắt ở trong vùng.
6. Các quy định trên được
áp dụng không phương hại đến các thỏa thuận được ký kết nếu có trong các phân
khu vực hoặc khu vực mà ở đó các quốc gia ven biển có thể dành cho các quốc gia
bất lợi về địa lý trong cùng khân khu vực hay khu vực các quyền ngang nhau hoặc
ưu tiên để khai thác các tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của
mình.
Các Điều 69 và 70 không
áp dụng đối với các quốc gia ven biển có nền kinh tế lệ thuộc rất nặng nề vào việc
khai thác tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
1. Các quyền khai thác các
tài nguyên sinh vật nêu ở các Điều 69 và 70 không thể chuyển giao trực tiếp hay
gián tiếp cho các quốc gia thứ ba hay cho các công dân của các quốc gia này, dù
bằng con đường cho thuê hay bằng giấy phép, hoặc bằng việc thành lập các xí
nghiệp liên doanh hay bằng bất cứ một thỏa thuận nào khác mà tác dụng là tạo ra
một sự chuyển giao như thế, trừ trường hợp các quốc gia hữu quan có thỏa thuận
khác.
2. Điều quy định trên
không ngăn cấm các quốc gia hữu quan nhận của quốc gia thứ ba hay các tổ chức
quốc tế sự trợ giúp về kỹ thuật hay tài chính nhằm làm dễ dàng cho việc thực
hiện các quyền của họ theo đúng Điều 69 và 70, với điều kiện là việc này không
dẫn đến một tác dụng nói ở khoản 1.
1. Trong việc thực hiện
các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài
nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi
hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố
tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo
đúng Công ước.
2. Khi có một sự bảo lãnh
hay một bảo đảm đầy đủ khác thì cần thả ngay chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay
cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu này.
3. Các chế tài do quốc
gia ven biển trù định đối với những vụ vi phạm các luật và quy định về mặt đánh
bắt trong vùng đặc quyền về kinh tế không được bao gồm hình phạt tống giam, trừ
khi các quốc gia hữu quan có thỏa thuận khác, và không bao gồm một hình phạt
thân thể nào khác.
4. Trong trường hợp bắt
hay giữ một tàu thuyền nước ngoài, quốc gia ven biển thông báo ngay cho quốc
gia mà tàu mang cờ biết, bằng các con đường thích hợp, các biện pháp được áp
dụng cũng như các chế tài có thể sẽ được tuyên bố sau đó.
1. Việc hoạch định ranh
giới vùng đặc quyền về kinh tế giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diên
nhau được thực hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng với pháp luật quốc tế
như đã nêu ở Điều 38 của Quy chế Tòa án quốc tế để đi đến một giải pháp công
bằng.
2. Nếu không đi tới được
một thỏa thuận trong một thời gian hợp lý thì các quốc gia hữu quan sử dụng các
thủ tục nêu ở phần XV.
3. Trong khi chờ ký kết
thỏa thuận ở khoản 1, các quốc gia hữu quan, trên tinh thần hiểu biết và hợp
tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn và
không phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai
đoán quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến hoạch định cuối
cùng.
4. Khi một điều ước đang
có hiệu lực giữa các quốc gia hữu quan, các vấn đề liên quan đến việc hoạch
định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế được giải quyết theo đúng điều ước đó.
1. Với điều kiện tuân thủ
phần này, các ranh giới phía ngoài của vùng đặc quyền về kinh tế và các đường
hoạch định ranh giới được vạch theo đúng Điều 74 đều được ghi lên các hải đồ có
tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí của nó; có trường hợp việc vẽ các ranh
giới ngoài hay các đường hoạch định ranh giới đó có thể thay thế bằng các bản
kê các tọa độ địa lý các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng.
3. Quốc gia ven biển công
bố theo đúng thủ tục các bản đồ hay bản kê các tọa độ đại lý gửi đến Tổng thư
ký Liên hợp quốc một bản để lưu chiểu.
1. Thềm lục địa của một
quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải
của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của
quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia
đó ờ khoảng cách gần hơn.
2. Thềm lục địa không mở
rộng ra ngoài các giới hạn nói ở các khoản từ 4 đến 6.
3. Rìa lục địa là phần
kéo dài ngập dưới nước của lục địa của quốc gia ven biển, cấu thành bởi đáy
biển tương ứng với thềm, dốc và bờ, cũng như lòng đất dưới đáy của chúng. Rìa
lục địa không bao gồm các đáy của đại dương ở độ sâu lớn, với các dải núi đại
dương của chúng, cũng không bao gồm lòng đất dưới đáy của chúng.
4. a) Theo công ước, quốc
gia ven biển xác định bờ ngoài của rìa lục địa mở rộng ra quá 200 hải lý các
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải bằng:
i. Một đường vạch theo
đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định tận cùng nào mà bề dày lớp đá trầm
tích ít nhất cũng bằng một phần trăm khoảng cách từ điểm được xét cho tới chân
dốc lục địa hay,
ii. Một đường vạch theo
đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất
là 60 hải lý;
b) Nếu không có bằng
chứng ngược lại, chân dốc lục địa trùng hợp với điểm biến đồi độ dốc rõ nét
nhất ở nền dốc
5. Các điểm cố định xác
định trên đáy biển, đường ranh giới ngoài cùng của thềm lục địa được vạch theo
đúng khoản 4, điểm a), điểm nhỏ i) và
ii), nằm cách điểm cơ sở để
tính chiều rộng lãnh hải một khoảng cách không vượt quá 350 hải lý hoặc nằm cách
đường đẳng sâu 2500m là đường nối liền các điểm có chiều sâu 2500m, một khoảng
cách không quá 100 hải lý.
6. Mặc dù đã có khoản 5,
một dải núi ngầm, ranh giới ngoài của thềm lục địa không vượt quá một đường
vạch ra ở cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 350 hải lý. Khoản
này không áp dụng cho các địa hình nhô cao dưới mặt nước tạo thành các yếu tố
tự nhiên của rìa lục địa, như các thềm, ghềnh, sông núi, bãi hoặc mỏm.
7. Quốc gia ven biển ấn
định ranh giới ngoài thềm lục địa của mình, khi thềm này mở rộng ra quá 200 hải
lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, bằng cách nối liền các
điểm cố định xác định bằng hệ tọa độ kinh vĩ độ, thành các đoạn thẳng dài không
quá 60 hải lý.
8. Quốc gia ven biển
thông báo những thông tin về ranh giới các thềm lục địa của mình, khi thềm này
mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, cho
ủy ban ranh giới thềm lục địa được thành lập theo Phụ lục II, trên cơ sở sự đại
diện công bằng về địa lý. Ủy ban gửi cho các quốc gia ven biển những kiến nghị về
các vấn đề liên quan đến việc ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của họ. Các
ranh giới do một quốc gia ven biển ấn định trên cơ sở các kiến nghị đó là dứt
khoát và có tính chất bắt buộc.
9. Quốc gia ven biển gửi
cho Tổng thư ký Liên hợp quốc các bản đồ và các điều chỉ dẫn thích đáng, kể cả
các dữ kiện trắc địa, chỉ rõ một cách thường xuyên ranh giới ngoài của thềm lục
địa của mình. Tổng thư ký công bố các tài liệu này theo đúng thủ tục.
10. Điều này không xét
đoán trước vấn đề hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ
biển tiếp liền hoặc đối diện nhau.
1. Quốc gia ven biển thực
hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác
tài nguyên thiên nhiên của mình.
2. Các quyền nói ở khoản
1 có tính chất đặc quyền, nghĩa là các quốc gia ven biển không thăm dò thềm lục
địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa, thì không ai
có quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự thỏa thuận rõ ràng
của quốc gia đó.
3. Các quyền của quốc gia
ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thực sự hay danh
nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào.
4. Các tài nguyên thiên nhiên
ở phần này bao gồm các tài nguyên thiên nhiên khoáng sản và các tài nguyên
thiên nhiên không sinh vật khác của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng
như các sinh vật thuộc loại định cư, nghĩa là những sinh vật nào, ở thời kỳ có
thể đánh bắt được, hoặc nằm bất động ở đáy, hoặc lòng đất dưới đáy; hoặc là không
có khả năng di chuyển nếu không có khả năng tiếp xúc với đáy hay lòng đáy dưới đáy
biển.
1. Các quyền của quốc gia
ven biển đối với thềm lục địa không đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước
ở phía trên hay của vùng trời trên vùng nước này.
2. Việc quốc gia ven biển
thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục địa không gây thiệt hại đến hàng
hải hay các quyền và các tự do khác của các nước khác đã được công ước thừa
nhận, cũng không được cản trở việc thực hiện các quyền này một cách không thể
biện bạch được.
1. Tất cả các quốc gia có
quyền đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa theo đúng điều này.
2. Trong điều kiện thi
hành các biện pháp hợp lý nhằm thăm dò thềm lục địa, khai thác tài nguyên thiên
nhiên ở thềm lục địa và ngăn chặn, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do ống dẫn gây
ra, quốc gia ven biển không được cản trở việc lắp đặt hay bảo quản các ống dẫn
và dây cáp đó.
3. Tuyến ống dẫn đặt ở
thềm lục địa cần được sự thỏa thuận của quốc gia ven biển.
4. Không một quy định nào
ở phần này đụng chạm đến quyền của quốc gia ven biển đặt ra các điều kiện đối
với các đường dây cáp hay các đường ống dẫn đi vào lãnh thổ hay lãnh hải của
mình, cũng như, không đụng chạm đến đường tài phán của quốc gia này đối với dây
và ống dẫn được đặt, hoặc sử dụng trong khuôn khổ của việc thăm dò thềm lục địa
của mình hay việc khai khác tài nguyên thiên nhiên của mình, hoặc của việc khai
thác các đảo nhân tạo, thiết bị hay công trình thuộc quyền tài phán của quốc
gia này.
5. Khi đặt các dây cáp và
ống dẫn ngầm, các quốc gia phải tính đến các dây cáp và ống ngầm đã được đặt
trước. Đặc biệt họ cần lưu ý không làm hại đến khả năng sửa chữa các đường dây
cáp và ống dẫn đó.
Điều 60 áp dụng mutatis
mutandis (với những sửa đổi cần thiết và chi tiết) đối với các đảo nhân tạo,
thiết bị và công trình ở thềm lục địa.
Quốc gia ven biển có đặc
quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì.
1. Quốc gia ven biển nộp
các khoản đóng góp bằng tiền hay bằng hiện vật về việc khai thác tài nguyên
thiên nhiên không sinh vật của thềm lục địa nằm ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ
sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
2. Các khoản đóng góp
được nộp hàng năm tính theo toàn bộ sản phẩm thu hoạch được ở một điểm khai
thác nào đó, sau năm năm đầu khai thác điểm đó. Năm thứ 6 tỉ lệ đóng góp là 1%
của giá trị hay của khối lượng sản phẩm khai thác được ở điểm khai thác. Sau đó,
mỗi năm tỷ lệ này tăng lên 1% cho đến năm thứ 12 và bắt đầu từ năm thứ 12 trở
đi tỷ lệ đó ở mức 7%. Sản phẩm không bao gồm các tài nguyên được dùng trong
khuôn khổ của việc khai thác.
3. Quốc gia đang phát
triển nào là nước chuyên nhập khẩu một khoáng sản được khai thác từ thềm lục
địa của mình được miễn các khoản đóng góp đối với loại khoáng sản đó.
4. Các khoản đóng góp này
được thực hiện thông qua Cơ quan quyền lực; cơ quan này phân chia các khoản đó
cho các quốc gia thành viên, theo tiêu chuẩn phân chia công bằng có tình đến
lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia
chậm phát triển nhất hay các quốc gia không có biển.
1. Việc hoạch định ranh
giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau được
thực hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng luật pháp quốc tế như đã được nêu
ở Điều 38 của Quy chế tòa án quốc tế, để đi tới một giải pháp công bằng.
2. Nếu không đi tới một
thỏa thuận trong một thời hạn hợp lý thì các quốc gia hữu quan sử dụng các thủ
tục nêu ở phần XV.
3. Trong khi chờ đợi ký kết
thỏa thuận nói ở khoản 1, các quốc gia hữu quan trên tinh thần hiều biết, và
hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các giải pháp tạm thời có tính chất thực
tiễn và để không phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát
trong giai đoạn quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến việc
hoạch định cuối cùng.
4. Khi một điều ước đang
có hiệu lực giữa các quốc gia hữu quan, các vấn đề liên quan đến việc hoạch
định ranh giới thềm lục địa được thực hiện theo đúng điều ước đó.
1. Với điều kiện tuân thủ
phần này, các ranh giới ngoài của thềm lục địa và các đường hoạch định ranh
giới được vạch ra theo đúng Điều 83 được ghi rõ lên các hải đồ có tỷ lệ thích
hợp để xác định được vị trí của nó, có trường hợp việc vẽ ranh giới ngoài hay
các đường hoạch đinh ranh giới này có thể được thay thế bằng các bản kê các tọa
độ địa lý các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng.
2. Quốc gia ven biển công
bố theo đúng thủ tục các bản đồ hay các bản kê các tọa độ địa lý và gửi đến Tổng
thư ký liên hợp quốc một bản để lưu chiểu, và đối với các bản đồ hay các bản kê
các tọa độ địa lý vị trí của ranh giới ngoài của thềm lục địa, thì gửi đến Tổng
thư ký của Cơ quan quyền lực một bản để lưu chiểu.
Phần này
không đụng chạm đến quyền của quốc gia ven biển được khai thác lòng đất dưới
đáy biển bằng cách đào hầm, bất kể độ sâu của các vùng nước ở nơi ấy là bao
nhiêu.
Phần
này áp dụng cho tất cả những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền về kinh
tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia cũng như không nằm trong vùng nước
quần đảo của một quốc gia quần đảo. Điều này không hạn chế về bất cứ phương
diện nào các quyền tự do mà tất cả các quốc gia được hưởng trong vùng đặc quyền
về kinh tế theo Điều 58.
1. Biển cả được để ngỏ
cho tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển. Quyền tự do trên biển cả
được thực hiện trong những điều kiện do các quy định của Công ước hay và những
quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định. Đối với các quốc gia dù có biển
hay không có biển, quyền tự do này đặc biệt bao gồm:
a) Tự do hàng hải;
b) Tự do hàng không;
c) Tự do đặt các dây cáp
hoặc ống dẫn ngầm với điều kiện tuân thủ Phần VI;
d) Tự do xây dựng các đảo
nhân tạo hoặc các thiết bị khác được pháp luật quốc tế cho phép, với điều kiện
tuân thủ phần VI;
e) Tự do đánh bắt hải sản
trong các điều đã được nêu ở Mục 2;
f) Tự do nghiên cứu khoa
học với các điều kiện tuân thủ các Phần VI và VIII.
2. Mỗi quốc gia khi thực
hiện các quyền tự do này phải tính đến lợi ích của việc thực hiện tự do trên
biển cả của các quốc gia khác, cũng như đến các quyền được Công ước thừa nhận
liên quân đến các hoạt động trong Vùng.
Biển cả được sử dụng vào
các mục đích hòa bình
Không một quốc gia nào có
thể đòi đặt một cách hợp pháp một bộ phận nào đó của biển cả thuộc vào chủ
quyền của mình
1. Mỗi quốc gia quy định
các điều kiện cho phép tàu thuyền mang quốc tịch của nước mình, các điều kiện
đăng ký các tàu thuyền trên lãnh thổ của mình và các điều kiện cần phải có để cho
tàu thuyền được quyền treo cờ của nước mình. Các tàu thuyền mang quốc tính của
quốc gia mà chúng được phép treo cờ. Cần phải có một mối quan hệ thực chất giữa
quốc gia và các con tàu.
2. Quốc gia nào cho phép tàu
thuyền treo cờ nước mình thì cấp cho tàu thuyền đó các tài liệu có liên quan
đến mục đích đó.
1. Các tàu thuyền chỉ hoạt
động dưới cờ của một quốc gia và, trừ những trường hợp ngoại lệ đã được quy
định rõ ràng trong các hiệp ước quốc tế hay trong Công ước, chỉ thuộc quyền tài
phán của quốc gia này khi ở biển cả. Không được thay đổi cờ trong một chuyến đi
hay trong một dịp đậu lại, trừ trường hợp có sự chuyển giao thật sự quyền sở hữu
hay có thay đổi đăng ký.
2. Một tàu thuyền hoạt động
dưới cờ của nhiều quốc gia mà nó sử dụng theo sở thích của mình thì không thể
sử dụng đối với mọi quốc gia thứ ba, bất cứ quốc tịch nào trong số đó và có thể
được coi như là một tàu thuyền không có quốc tịch.
Các
điều trên không đề cập vấn đề các tàu được dùng vào dịch vụ chính thức của Liên
hợp quốc, của các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc hay Cơ quan năng lượng
nguyên tử quốc tế.
1. Mọi quốc gia đều thực
sự thi hành quyền tài phán và sự kiểm soát của mình trong các lĩnh vực hành chính,
kỹ thuật và xã hội đối với các tàu thuyền mang cờ của mình.
2. Đặc biệt mọi quốc gia:
a) Có một sổ đăng ký hàng
hải có ghi tên và đặc điểm của các tàu thuyền mang cờ nước mình, trừ các tàu
thuyền do kích thước nhỏ không nằm trong quy định quốc tế được chấp nhận chung;
b) Thi hành quyền tài
phán theo đúng luật trong nước mình đối với bất kỳ tàu thuyền nào mang cờ nước mình,
cũng như đối với thuyền trưởng, sĩ quan và đoàn thủy thủ về các vấn đề hành
chính, kỹ thuật và xã hội liên quan đến tàu thuyền.
3. Mọi quốc gia phải có các
biện pháp cần thiết đối với các tàu thuyền mang cờ của nước mình để đảm bảo an
toàn trên biển, nhất là về:
a) Cấu trúc, trang bị của
tàu thuyền và khả năng đi biển của nó;
b) Thành phần, điều kiện
làm việc và việc đào tạo các thủy thủ, có tính đến các văn bản quốc tế có thể
áp dụng được;
c) Việc sử dụng các tín
hiệu, tình trạng hoạt động tốt của hệ thống thông tin liên lạc và việc phòng
ngừa đâm va.
4. Các biện pháp này bao
gồm các biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng:
a) Tàu thuyền nào cũng
phải được một viên thanh tra hàng hải có trình độ kiểm tra trước khi đăng ký
vào sổ và sau đó, trong những khoảng thời gian thích hợp và trên tàu thuyền cần
có các hải đồ, các tài liệu về hàng hải, cũng như dụng cụ và máy móc hàng hải
mà sự an toàn hàng hải đòi hỏi;
b) Tàu thuyền nào cũng
phải được giao cho một thuyền trưởng và các sĩ quan có trình độ chuyên môn cần
thiết, đặc biệt là việc điều động, hàng hải, thông tin liên lạc và điều khiển
các máy, thủy thủ có trình độ chuyên môn cần thiết và đủ số so với loại tàu
thuyền, kích thước, máy móc và trang bị của tàu thuyền;
c) Thuyền trưởng, các sỹ
quan và ở mức độ cần thiết, đoàn thủy thủ hoàn toàn nắm vững và sẵn sàng tôn
trọng các quy tắc quốc tế có thể áp dụng được về việc cứu sinh trên biển, việc
phòng ngừa các tai nạn đâm va, việc ngăn ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường
biển và việc duy trì thông tin liên lạc bằng vô tuyến điện
5. Khi thi hành các biện
pháp nói ở các khoản 3 và 4, mỗi quốc gia buộc phải tuân thủ các quy tắc, thủ
tục và tập quán quốc tế đã được chấp nhận chung và thi hành mọi biện pháp cần
thiết để đảm bảo cho các quy tắc, thủ tục và tập quán nói trên được tôn trọng.
6. Quốc gia nào có những
lý do đúng đắn để nghĩ rằng quyền tài phán và quyền kiểm soát thích hợp đối với
một tàu thuyền đã không được thi hành, thì có thề thông báo những sự kiện đó
cho quốc gia mà tàu mang cờ. Khi được thông báo, quốc gia mà tàu mang cờ phải
tiến hành điều tra và nếu cần, có các biện pháp điều chỉnh cần thiết.
7. Mỗi quốc gia ra lệnh
mở cuộc điều tra do một hay nhiều nhân vật có đầy đủ thẩm quyền tiến hành, hoặc
là cuộc điều tra được tiến hành trước những nhân vật đó về bất cứ tai nạn nào
trên biển hay sự cố hàng hải nào xảy ra trên biển cả có liên quan đến một chiếc
tàu mang cờ của nước mình và đã gây ra chết người hay gây trọng thương cho
những công dân của một quốc gia khác, hoặc đã gây ra những thiệt hại nghiêm
trọng cho tàu thuyền và công trình thiết bị của một quốc gia khác hay cho môi
trường biển. Quốc gia mà tàu mang cờ và quốc gia hữu quan đó tổ chức về một tai
nạn trên biển hay một sự cố hàng hải thuộc loại này.
Các tàu
chiến trên biển cả được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn về tài phán của bất kỳ
quốc gia nào khác ngoài quốc gia mà tàu mang cờ.
Các
tàu thuyền của Nhà nước hay do Nhà nước khai thác và chỉ dùng cho một cơ quan
Nhà nước không có tính chất thương mại trên biển cả được hưởng quyền miễn trừ
hoàn toàn về tài phán của bất kỳ quốc gia nào khác ngoài quốc gia mà tàu mang
cờ.
1. Trong trường hợp xảy ra
tai nạn đâm va hay bất kỳ sự cố hàng hải nào trên biển cả mà trách nhiệm hình sự
hay trách nhiệm kỷ luật thuộc về thuyền trưởng hoặc thuộc về bất kỳ thành viên
nào trong đoàn thủy thủ của con tàu, chỉ có thể yêu cầu truy tố hình sự hay thi
hành kỷ luật họ trước các nhà đương cục tư pháp hay hành chính của quốc gia mà
tàu mang cờ hoặc là của quốc gia mà đương sự mang quốc tịch.
2. Về mặt kỷ luật, quốc
gia nào đã cấp bằng chỉ huy hay giấy chứng nhận khả năng hoặc giấy phép, là
quốc gia duy nhất có thẩm quyền công bố, với việc tôn trọng các thủ tục họp pháp,
thu hồi các bằng hay chứng chỉ đó không thuộc quốc tịch của quốc gia đó.
3. Không thể ra lệnh bắt
hay giữ chiếc tàu, ngay cả trong khi tiến hành công việc dự thẩm, nếu không
phải là nhà đương cục của quốc gia mà tàu mang cờ.
1. Mọi quốc gia đòi hỏi
thuyền trưởng của một chiếc tàu mang cờ của nước mình, trong chừng mực có thể
làm được mà không gây nguy hiểm nghiêm trọng cho con tàu, cho đoàn thủy thủ hay
cho hành khách trên tàu, phải:
a) Giúp đỡ bất kỳ ai đang
gặp nguy khốn trên biển;
b) Hết sức nhanh chóng
đến cứu những người đang bị nguy cấp nếu như được thông báo những người này cần
được giúp đỡ, trong chừng mực mà người ta có thể chờ đợi một cách hợp lý là
thuyền trưởng phải xử lý như thế;
c) Trong trường hợp xảy
ra tai nạn đâm va, giúp đỡ chiếc tàu kia, đoàn thủy thủ và hành khách của nó
và, trong phạm vi có thể, cho chiếc tàu đó biết tên và cảng đăng ký của tàu
mình, và cảng gần nhất mà tàu mình sẽ cập bến.
2. Tất cả các quốc gia
ven biển tạo điều kiện dễ dàng cho việc thành lập và hoạt động của một cơ quan
thường trực về tìm kiếm và cứu trợ thích hợp và hiệu quả, để đảm bảo an toàn
hàng hải và hàng không, và nếu có thể, thì hợp tác với những nước láng giềng
của mình trong khuôn khổ của những dàn xếp có tính chất khu vực, để thực hiện
mục đích nói trên.
Mọi
quốc gia đều thi hành các biện pháp có hiệu quả để ngăn ngừa và trừng trị việc
chuyên chở nô lệ trên các tàu được phép mang cờ của nước mình, và để ngăn ngừa
việc lạm dụng sắc cờ của mình vào mục đích nói trên. Mọi người nô lệ ẩn náu ở
trên một chiếc tàu, dù con tàu này mang cờ của bất kỳ quốc gia nào, cũng được
tự do ipso-facto (ngay tức khắc).
Tất cả
các quốc gia hợp tác với nhau, bằng mọi khả năng của mình, để trấn áp cướp biển
trên biển cả hay ở bất kỳ nơi nào khác không thuộc quyền tài phán của quốc gia
nào.
Một trong những hành động
sau đây là hành động cướp biển:
a) Mọi hành động trái
phép dùng hành động hay bắt giữ hoặc bất kỳ sự cướp phá nào do thủy thủ hoặc hành
khách trên một chiếc tàu hay một phương tiện bay tư nhân gây nên, vì những mục
đích riêng tư, và nhằm:
i. Chống lại một chiếc
tàu hay một phương tiện bay khác, hay chống lại những người hay của cải ở trên
con tàu hoặc phương tiện bay đỗ ở biển cả;
ii. Chống lại một chiếc
tàu hay một phương tiện bay, người hay của cải, ở một nơi không thuộc quyền tài
phán của một quốc gia nào;
b) Mọi hành động tham gia
có tính chất tự nguyện vào việc sử dụng một chiếc tàu hay một phương tiện bay,
khi người tham gia biết từ những sự việc rằng chiếc tàu hay phương tiện bay đó
là một tàu hay phương tiện bay cướp biển;
c) Mọi hành động nhằm xúi
giục người khác phạm những hành động được xác định ở điểm a hoặc b hay phạm
phải với chủ định làm dễ dàng cho các hành động đó.
Những
hành động cướp biển, như đã được xác định ở Điều 101, của một tàu chiến hay một
tàu Nhà nước hay một phương tiện bay của Nhà nước bị đoàn thủy thủ hay đội bay
nổi loạn làm chủ, được coi là hành động của các tàu hay phương tiện bay tư
nhân.
Những
tàu hay phương tiện bay mà kể kiểm soát nó thực sự, chủ trương sử dụng để phạm
một trong những hành động được nêu ở Điều 101, được coi là những tàu hay phương
tiện bay cướp biển. Những chiếc tàu hay phương tiện bay đã được dùng để phạm
những hành động nói trên cũng được coi là tàu hay phương tiện bay cướp biển
chừng nào nó còn ở dưới quyền kiểm soát của những người gây ra những hành động
đó.
Một
con tàu hay một phương tiện bay đã trở thành cướp biển có thể giữ quốc tịch của
mình. Việc giữ hay mất quốc tịch do luật trong nước của quốc gia đã trao quốc
tịch đó điều chỉnh.
Mọi
quốc gia ở biển cả, hay ở bất cứ nơi nào khác không thuộc quyền tài phán của bất
kỳ quốc gia nào, đều có thể bất giữ một chiếc tàu hay một phương tiện bay đã trở
thành cướp biển, hoặc một chiếc tàu hay một phương tiện bay bị chiếm đoạt sau
một hành động cướp biển và đang nằm trong tay bọn cướp biển, và đều có thể bắt
giữ người và của cải ở trên con tàu hay phương tiện bay đó. Các tòa án của quốc
gia đã tiến hành việc bắt đó có thể công bố các hình phạt cũng như các biện
pháp áp dụng đối với chiếc tàu, phương tiện bay hay của cải, trừ những người
lương thiện trong cuộc.
Khi bắt
giữ một chiếc tàu hay một phương tiện bay bị tình nghi là cướp biển mà không có
lý do đầy đủ, quốc gia nào đã tiến hành việc bắt giữ đó phải chịu trách nhiệm
về bất kỳ tổn thất hay thiệt hại nào do hành động đó gây ra đối với quốc gia mà
tàu mà phương tiện bay đó mang quốc tịch.
Chỉ có
các tàu chiến hay phương tiện bay quân sự, hoặc các tàu thuyền hay phương tiện
bay khác mang các dấu hiện bên ngoài chứng tỏ rõ ràng là của một cơ quan Nhà
nước và được tiến hành nhiệm vụ này, mới có thể thực hiện việc bắt giữ vì lý do
cướp biển.
1. Tất cả các quốc gia
hợp tác với nhau để trấn áp việc buôn bán trái phép các chất ma túy và các chất
kích thích do các tàu đi lại ở biển cả tiến hành, vi phạm các công ước quốc tế.
2. Mọi quốc gia khi đã có
lý do chính đáng để cho rằng một tàu mang cờ của nước mình đang buôn bán trái
phép các chất ma túy và các chất kích thích đều có thể yêu cầu các quốc gia
khác hợp tác để chấm dứt việc buôn bán đó.
1. Tất cả các quốc gia
hợp tác với nhau để trấn áp phát sóng không được phép từ biển cả.
2. Trong Công ước “phát
sóng không được phép” là các cuộc phát thanh và vô tuyến truyền hình nhằm vào
quảng đại quần chúng từ một chiếc tàu hay một thiết bị ở biển cả vi phạm các
quy chế quốc tế, trừ việc phát các tín hiệu cấp cứu.
3. Người nào tiến hành
truyền các cuộc phát sóng không được phép đều có thể bị truy tố trước tòa án
của:
a) Quốc gia mà chiếc tàu
phát sóng mang cờ;
b) Quốc gia đăng ký của thiết
bị;
c) Quốc gia mà người nói
trên là công dân;
d) Mọi quốc gia mà ở đó
các cuộc phát sóng có thể thu được;
e) Mọi quốc gia có các
đài thông tin vô tuyến được phép đã bị nhiễu do các cuộc phát sóng đó.
4. Ở biển cả, một quốc
gia có quyền tài phán ở theo đúng khoản 3, có thể theo đúng Điều 110, bắt bất kỳ
người nào hay giữ bất kỳ chiếc tàu nào truyền các cuộc phát sóng không được
phép và tịch thu phương tiện phát sóng.
1. Trừ những trường hợp
mà việc can thiệp là căn cứ vào những quyền do hiệp ước mang lại, một tàu chiến
khi gặp một tàu nước ngoài ở trên biển cả không phải là một tàu được hưởng
quyền miễn trừ như đã nêu ở các Điều 95 và 96, chỉ có thể khám xét chiếc tàu đó
nếu có những lý do đúng đắn để nghi ngờ chiếc tàu đó:
a) Tiến hành cướp biển;
b) Chuyên chở nô lệ;
c) Dùng vào các cuộc phát
sóng không được phép, quốc gia mà chiếc tàu mang cờ có quyền tài phán theo Điều
109;
d) Không có quốc tịch;
hay
e) Thật ra là cùng quốc
tịch với chiếc tàu chiến, mặc dù chiếc tàu này treo cờ nước ngoài hay từ chối
treo cờ của mình.
2. Trong những trường hợp
nêu ở khoản 1, tàu chiến có thể kiểm tra các giấy tờ cho phép mang cờ. Vì mục
đích này, tàu chiến có thể phái một chiếc xuồng, dưới sự chỉ huy của một sĩ
quan, đến gần chiếc tàu bị tình nghi. Sau khi kiểm tra các tài liệu, nếu vẫn
còn nghi vấn thì có thể tiếp tục điều tra trên tàu với một thái độ hết sức đúng
mực.
3. Nếu việc nghi ngờ xét
ra không có cơ sở thì chiếc tàu bị khám xét được bồi thường về mọi tổn thất hay
thiệt hại xảy ra, với điều kiện là chiếc tàu này không phạm một hành động nào
làm cho nó bị tình nghi.
4. Các điều quy định này
được áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) đối với
các phương tiện bay quân sự.
5. Các điều quy định này
cũng được áp dụng đối với tất cả các tàu thuyền hay phương tiện bay khác đã
được phép một cách hợp lệ và mang những dấu hiệu bên ngoài chỉ rõ rằng chúng
được sử dụng cho một cơ quan Nhà nước.
1. Việc truy đuổi một tàu
nước ngoài có thể được tiến hành nếu những nhà đương cục có thẩm quyền của quốc
gia ven biển có những lý do đúng đắn để cho rằng chiếc tàu này đã vi phạm các
luật và quy định của quốc gia đó. Việc truy đuổi phải bắt đầu khi chiếc tàu
nước ngoài hay một trong những chiếc xuồng của nó đang ở trong nội thủy, trong
vùng nước quần đảo, trong lãnh hải hay trong vùng tiếp giáp của quốc gia truy
đuổi, và chỉ có thể được tiếp tục ở ngoài ranh giới của lãnh hải hay vùng tiếp
giáp với điều kiện là việc truy đuổi này không bị gián đoạn. Không nhất thiết
là chiếc tàu ra lệnh cho tàu nước ngoài đang đi trong lãnh hải hay trong vùng
tiếp giáp dừng lại cũng phải có mặt tại các vùng biển ấy khi mà chiếc tàu nước ngoài
này nhận được lệnh. Nếu chiếc tàu nước ngoài ở trong vùng tiếp giáp, được quy
định ở Điều 33, việc truy đuổi chỉ có thể bắt đầu nếu tàu đó đã vi phạm các
quyền, mà việc thiết lập vùng tiếp giáp có nhiệm vụ bảo vệ.
2. Quyền truy đuổi được
áp dụng matatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) đối với
những hành động vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển có thể áp
dụng, theo đúng Công ước, cho vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, kể cả
các vùng an toàn bao quanh các thiết bị ở thềm lục địa, nếu các vi phạm này đã
xảy ra trong các vùng nói trên.
3. Quyền truy đuổi chấm
dứt khi chiếc tàu bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia mà nó thuộc quyền
hay của một quốc gia khác.
4. Việc truy đuổi chi
được coi như bắt đầu, nếu chiếc tàu truy đuổi bằng các phương tiện có thể sử
dụng được mà mình có, biết một cách chắc chắn là chiếc tàu bị đuổi, hay một những
trong chiếc xuồng của nó hoặc các phương tiện đi biển khác hoạt động thành tốp
và dùng chiếc tàu bị truy đuổi làm chiếc tàu mẹ, đang ở bên trong ranh giới của
lãnh hải, hay tùy theo trường hợp đang ở trong vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền
kinh tế hay ở trên thềm lục địa. Việc truy đuổi chỉ có thể bắt đầu sau khi đã
phát tín hiệu nhìn hoặc nghe bắt nó dừng lại, ở một cự ly cần thiết để chiếc
tàu nói trên nhận biết được.
5. Quyền truy đuổi chỉ có
thể được thực hiện bởi các tàu chiến hay các phương tiện quân sự hoặc các tàu
hay phương tiện bay khác có mang các dấu hiện ở bên ngoài chỉ rõ rang rằng, các
tàu hay phương tiện bay đó được sử dụng cho một cơ quan Nhà nước và được phép
làm nhiệm vụ này.
6. Trong trường hợp mà
chiếc tàu bị một phương tiện bay truy đuổi:
a) Các khoản 1 đến 4 được
áp dụng mutatis mutandis (với những thay đổi cần thiết và chi tiết);
b) Phương tiện bay nào
phát lệnh dừng lại phải tự mình truy đuổi chiếc tàu cho đến lúc một chiếc tàu
hay phương tiện bay khác của quốc gia ven biển; sau khi được phương tiện bay
nói trên thông báo, đã đến những vị trí để tiếp tục cuộc truy đuổi nếu như
phương tiện đầu tiên không thể tự mình giữ được chiếc tàu. Để chứng minh cho
việc bắt một chiếc tàu dừng lại ở ngoài lãnh hải là đúng, thì riêng việc phát
hiện chiếc tàu này đã vi phạm hay bị nghi ngờ là vị phạm là chưa đủ, mà còn
phải xác định đồng thời xem nó có bị phương tiện bay hay tàu khác yêu cầu dừng
lại và việc truy đuổi này phải không hề bị gián đoạn.
7. Không thể đòi hủy lệnh
giữ một chiếc tàu bị bắt ở địa điểm thuộc quyền tài phán của một quốc gia và bị
dẫn độ về một cảng của quốc gia này để cho các nhà đương cục có thẩm quền tiến
hành điều tra với lý do duy nhất là vì hoàn cảnh bắt buộc chiếc tàu đó đã đi có
hộ tống qua một phần của vùng đặc quyền về kinh tế hay của biển cả.
8. Một chiếc tàu đã bị
bắt dừng lại hay bị bắt ở ngoài lãnh hải trong những hoàn cảnh không chứng minh
được cho việc sử dụng quyền truy đuổi thì được bồi thường về mọi tổn thất hay
tổn hại nếu có.
1. Mọi quốc gia có quyền
đặt các dây cáp hay ống dẫn ngầm ở đáy biển cả bên ngoài thềm lục địa.
2. Điều 79, khoản 5, được
áp dụng đối với đường dây cáp và ống dẫn ngầm này.
Mọi quốc ra đều định ra
các luật và quy định cần thiết để coi là hành động vi phạm có thể bị trừng
phạt: một chiếc tàu mang cờ của quốc gia đó hay một người thuộc quyền tài phán
của quốc gia đó đã cố ý hay do cẩu thả mà làm cho một đường dây cáp cao thế hay
một đường ống dẫn ngầm ngoài biển cả bị đứt đoạn hay hư hỏng một đường dây cáp
điện báo hay điện thoại ngầm trong chừng mực có nguy cơ làm rối loạn hay làm
gián đoạn thông tin điện báo hay điện thoại. Điều quy định này cũng áp dụng cho
bất kỳ hành động nào có thể gây nên tình trạng các đường dây cáp hay ống dẫn
ngầm nói trên bị cắt đứt hoặc hư hỏng hay cố ý nhằm gây nên tình trạng đó. Tuy
nhiên, điều quy định này không áp dụng khi việc làm đứt đoạn hay hư hỏng đường
dây cáp và ống dẫn là hành động của những người, sau khi đã thi hành tất cả các
biện pháp phòng ngừa cần thiết để tránh gây ra tình trạng đó, chỉ hành động
nhằm mục đích chính đáng cứu lấy sinh mạng hay con tàu của họ.
Mọi quốc ra đều định ra
các luật và quy định cần thiết để trong trường hợp một dây cáp hay một ống dẫn
ngầm ở biển cả bị đứt đoạn hay hư hỏng do việc đặt một dây cáp hay một ống dẫn
ngầm khác của một người có quyền tài phán của mình, người này phải chịu những
phí tổn để sửa chữa những thiệt hại mà mình gây ra.
Mọi quốc
ra đều định ra các luật và quy định cần thiết để người chủ của con tàu nào đưa
ra được chứng cứ chứng minh rằng đã chịu mất một chiếc neo, một tấm lưới hay
một phương tiện đánh bắt khác nhằm trành làm hư hỏng một dây cáp hay một ống
dẫn ngầm, thì được người người sở hữu của dây cáp hay một ống dẫn ngầm bồi
thường, với điều kiện là người chủ của con tàu đó đã dùng mọi biện pháp đề
phòng hợp lý.
Tất cả các quốc gia đều
có quyền cho công dân của mình đánh bắt ở biển cả, với điều kiện:
a) Tuân theo các nghĩa vụ
ghi trong công ước;
b) Tôn trọng các quyền và
nghĩa vụ cũng như các lợi ích của các quốc gia ven biển như đã được trù định,
đặc biệt là trong Điều 63, khoản 2 và trong các Điều từ 64 đến 67; và
c) Tuân theo mục này
Tất cả
các quốc gia có nghĩa vụ định ra các biện pháp có thể cần thiết để áp dụng đối
với các công dân của mình nhảm bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả hoặc hợp
tác với các quốc gia khác trong việc định ra các biện pháp như vậy.
Các
quốc gia hợp tác với nhau trong việc bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật ở
biển cả. Các quốc gia có công dân khai thác tài nguyên sinh vật khác nhau ở
trong cùng một khu vực hoặc các tài nguyên sinh vật giống nhau, thương lượng
với nhau để có những biện pháp cần thiết trong việc bảo tồn các tài nguyên đó.
Nhằm mục đích đó, nếu cần, các nước này hợp tác để lập ra các tổ chức đánh bắt
phân khu vực hoặc khu vực.
1. Khi quy định khối
lượng cho phép đánh bắt và thi hành các biện pháp khác để bảo tồn các tài
nguyên sinh vật ở biển cả, các quốc gia phải:
a) Dựa trên những số liệu
đáng tin cậy nhất của mình, quan tâm đến việc khôi phục hay duy trì các đàn
(stocks), những loài khai thách ở những mức độ đảm bảo năng suất ổn định tối
đa, có chú ý tới những yếu tố sinh thái và kinh tế thích đáng, kể cả những nhu
cầu đặc biệt của những quốc gia đang phát triển và có tính đến những phương pháp
đánh bắt, đến quan hệ hỗ tương giữa các đàn (stocks) và đến tất cả mọi quy phạm
quốc tế tối thiểu thường được kiến nghị chung trong phạm vi phân khu vực, khu
vực hay thế giới;
b) Quan tâm đến những tác
động của các biện pháp này đối với những loài quần vợt với các loài bị khai
thác hay phụ thuộc vào chúng, để duy trì và khôi phục các đàn (stocks) của các
loài quần hợp hay phụ thuộc này ở mức độ mà việc sinh sản của chúng không có
nguy cơ bị tổn hại nghiêm trọng.
2. Các thông tin khoa học
sẵn có, những số liệu thống kê liên quan đến việc đánh bắt và đến khả năng của
nghề cá và các dữ kiện khác liên quan đến việc bảo tồn và các đàn cá được phổ
biến và trao đổi đều đặn qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền
phân khu vực, khu vực hay thế giới, và nếu được, với sự tham gia của tất cả các
quốc gia hữu quan.
3. Các quốc gia hữu quan
chăm lo sao cho những biện pháp bảo tồn và việc áp dụng những biện pháp đó
không dẫn đến một sự phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt thực tế đối
với bất cứ ngư dân nào, bất kể họ là công dân của quốc gia nào.
Điều
65 cũng áp dụng cho việc bảo tồn và quản lý các loài có vú ở biển cả.
1. Một đảo là một vùng
đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt
nước.
2. Với điều kiện phải
tuân thủ khoản 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm
lục địa của hòn đảo được hoạch định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng
cho các lãnh thổ đất liền khác.
3. Những hòn đảo đá nào
không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng, thì
không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa.
Trong Công ước, “biển kín hay nửa kín” là một vịnh, một
vũng hay một vùng biển do nhiều quốc gia bao bọc xung quanh và thông với một
biển khác hay với đại dương qua một cửa hẹp, hoặc là hoàn toàn do chủ yếu hay các
lãnh hải và các vùng đặc quyền về kinh tế của nhiều quốc gia tạo thành.
Các quốc gia ở ven bở một
biển kín hay nửa kín cần hợp tác với nhau trong việc sử dụng các quyền và thực
hiện các nghĩa vụ của họ theo Công ước. Vì mục đích này, trực tiếp hoặc qua
trung gian của một tổ chức khu vực thích hợp, các quốc gia này cố gắng:
a) Phối hợp trong việc quản
lý, bảo tồn, thăm dò và khai thác các tài nguyên sinh vật của biển;
b) Phối hợp trong việc sử
dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của họ có liên quan đến việc bảo vệ và
giữ gìn môi trường biển;
c) Phối hợp các chính
sách khoa học của họ, và nếu có thể, thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa
học chung trong vùng được xem xét;
d) Nếu có thể thì mời các
quốc gia khác hay các tổ chức quốc tế hữu quan hợp tác với họ trong việc áp
dụng điều này.
1. Trong Công ước:
a) “Quốc gia không có biển” (Etat sans littoral) có nghĩa là mọi quốc
gia không có bờ biển;
b) “Quốc gia quá cảnh” (Etat de transit) là mọi quốc gia có hay không
có bờ biển, ở giữa một quốc gia không có bờ biển và biển, việc vận chuyển quá
cảnh phải đi qua quốc gia đó;
c) “Vận chuyển quá cảnh” (trafic en transit) là việc quá cảnh người,
hàng hóa, của cải và các phương tiện vận tải qua lãnh thổ của một hay nhiều
quốc gia quá cảnh, khi quãng đường ở trên lãnh thổ này, dù có hoặc không có
việc chuyển tải, việc lưu kho, việc chở hàng bị ngắt quãng hay việc thay đổi
phương thức vận chuyển, chỉ là một phần của một chuyến đi hoàn chỉnh hay bắt
đầu kết thúc trên lãnh thổ của quốc gia không có bờ biển;
d) “Phương tiện vận chuyển” (moyens de transport) là:
i. Phương tiện chạy trên
đường sắt, tàu đi biển, tàu chạy trên hồ, trên sông và các xe cộ trên đường bộ;
ii. Khi các điều kiện địa
phương bắt buộc, là những người khuân vác hoặc súc vật kéo.
2. Các quốc gia không có
biển và các quốc gia quá cảnh có thể thỏa thuận xếp vào các phương tiện vận
chuyển các ống dẫn và ống dẫn khí đốt và các phương tiện khác ngoài các phương
tiện đã nêu ở khoản 1.
1. Các quốc gia không có
biển có quyền đi ra biển và từ biển vào để sử dụng các quyền được trù định
trong Công ước, kể cả các quyền liên quan đến tự do trên biển cả và liên quan
đến di sản chung của loài người. Vì mục đích ấy, các quốc gia đó được hưởng tự
do quá cảnh qua lãnh thổ của các quốc gia quá cảnh bằng mọi phương tiện vận
chuyển.
2. Các điều kiện và thể
thức sử dụng quyền tự do quá cảnh được thỏa thuận giữa các quốc gia không có
biển và các quốc gia quá cảnh hữu quan qua con đường thỏa thuận tay đôi, phân
khu vực hay khu vực.
3. Trong việc sử dụng chủ
quyền toàn vẹn trên lãnh thổ của mình, các quốc gia quá cảnh có quyền ra tất cả
mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng, các quyền và các điều kiện thuận lợi
được quy định trong phần này vì lợi ích của quốc gia không có biển, không hề
đụng chạm đến lợi ích chính đáng của quốc gia quá cảnh.
Các quy định của Công ước
cũng như các điều ước đặc biệt liên quan đến việc sử dụng quyền ra biển và đi
từ biển vào trù định các quyền và các điều kiện thuận lợi cho các quốc gia
không có biển do vị trí địa lý đặc biệt của quốc gia đó, bị loại trừ khỏi việc
áp dụng điều khoản tối huệ quốc.
1. Việc vận chuyển quá cảnh
không phải nộp thuế quan, thuế hay mọi khoản lệ phí khác, ngoài các khoản thuế
trả cho các dịch vụ đặc biệt liên quan đến việc vận chuyển đó.
2. Các phương tiện vận
chuyển quá cảnh và các điều kiện thuận lợi khác cho việc quá cảnh dành cho quốc
gia không có biển và được quốc gia này sử dụng, không phải chịu các thứ thuế
hay các khoản lệ phí cao hơn các khoản phải trả cho việc sử dụng các phương
tiện vận chuyển của quốc gia quá cảnh.
Khi
trong các quốc gia quá cảnh không có các phương tiện vận chuyển cho phép sử
dụng thật sự quyền tự do quá cảnh, hoặc khi các phương tiện hiện có, kể cả các
trang thiết bị cảng, không thích đáng về bất cứ một phương diện nào, quốc gia
quá cảnh và quốc gia không có biển hữu quan có thể hợp tác để đóng hay cải tiến
các phương tiện hiện có.
1. Quốc gia quá cảnh thi
hành mọi biện pháp thích hợp để tránh mọi tình trạng chậm trễ hay những khó khăn
có tính chất kỹ thuật trong việc vận chuyển quá cảnh.
2. Các nhà đương cục có
thẩm quyền của quốc gia quá cảnh không có biển, trong trường hợp có tình trạng
chậm trễ hay khó khăn, hợp tác để nhanh chóng loại trừ các nguyên nhân của tình
trạng đó.
Các tàu mang cờ của một
quốc gia không có biển được hưởng trong các cảng biển sự đối xử bình đẳng như
các tàu nước ngoài khác.
Công
ước không có hàm ý rút bớt những điều kiện thuận lợi rộng rãi hơn những điều mà
Công ước đã trù định và đã được sự thỏa thuận giữa các quốc gia thành viên hay
đã được một quốc gia thành viên chấp nhận. Công ước cũng tuyệt đối không cấm
các quốc gia thành viên trong tương lai dành những điều kiện thuận lợi rộng rãi
hơn.
Trong phần này
a) “Tài nguyên”
(ressources) là tất cả các tài nguyên khoáng sản ở thể rắn, lỏng hoặc khí in
situ (ở ngay tại chỗ) trong Vùng, nằm ở đáy biển hay lòng đất dưới đáy biển
này, kể cả các khối đá kim (nodules polymétalliques);
b) Các tài nguyên, một
khi đã được khai thác từ Vùng, được gọi là “các khoáng sản” (minéraux)
1. Phần này được áp dụng
đối với Vùng
2. Các hoạt động tiến
hành trong Vùng do phần này điều chỉnh.
3. Việc gửi lưu chiểu các
bản đồ hay bản kê các tọa độ địa lý xác định vị trí các ranh giới nêu ở Điều 1,
khoản 1, cũng như việc công bố các bản đồ hay bản kê tọa độ đó, do phần VI điều
chỉnh.
4. Không một điều nào của
quy định này đụng chạm đến việc xác đinh ranh giới ngoài của thềm lục địa theo
đúng phần VI hay đến hiệu lực của các điều ước liên quan đến việc hoạch định
ranh giới giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau.
Phần này cũng như các
quyền được hưởng hay được thực hiện theo phần này không ảnh hưởng đến chế độ
pháp lý của vùng nước ở phía trên Vùng hay đến chế độ pháp lý của vùng trời ở
phía trên vùng nước này.
Vùng và tài nguyên của nó
là di sản chung của loài người.
1. Không một quốc gia nào
có thể đòi hỏi thực hiện chủ quyền hay các quyền thuộc chủ quyền ở một phần nào
đó của Vùng hoặc đối với tài nguyên của Vùng; không một quốc gia nào và không
một tự nhiên nhân hay pháp nhân nào có thể chiếm đoạt bất cứ một phần nào đó
của Vùng hoặc tài nguyên của Vùng. Không một yêu sách, một việc thực hiện chủ
quyền hay các quyền thuộc quyền chủ quyền này cũng như một hành động chiếm đoạt
nào được thừa nhận.
2. Toàn thể loài người,
mà Cơ quan quyền lực là người thay mặt có tất cả các quyền đối với các tài
nguyên của Vùng. Những tài nguyên này không thể chuyển nhượng được. Còn các
khoáng sản đã được khai thác từ Vùng thì chỉ có thể chuyển nhượng theo đúng phần
này và phù hợp với các nguyên tắc, quy định và các thủ tục của Cơ quan quyền
lực.
3. Một quốc gia hay một
tự nhiên nhân hay pháp nhân chỉ được đòi hỏi, giành lấy hoặc thực hiện các
quyền đối với các khoáng sản đã được khai thác ở Vùng theo đúng phần này. Các quyền
đã đòi hỏi, giành được hay được thực hiện bằng cách khác đều không được thừa
nhận.
Trong cách xử sự chung
liên quan đến Vùng, các quốc gia tuân theo phần này, các nguyên tắc được nêu
trong Hiến chương Liên Hợp quốc và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế, với
sự quan tâm giữ gìn hòa bình và an ninh, đẩy mạnh sự hợp tác quốc tế và hiểu biết
lẫn nhau.
1. Các quốc gia thành
viên có nghĩa vụ quan tâm đến việc bảo đảm cho các hoạt động trong Vùng, dù do
bản thân các quốc gia đó, do các xí nghiệp Nhà nước của họ hoặc do các tự nhiên
nhân hay pháp nhân mang quốc tịch của họ hoặc chịu sự kiểm soát thật sự của họ
hay các công dân của họ, được tiến hành theo đúng với phần này. Các tổ chức
quốc tế cũng có nghĩa vụ như vậy với các hoạt động trong vùng.
2. Không phương hại đến
các quy tắc của pháp luật quốc tế và đến Điều 22 của Phụ lục III, một quốc gia
thành viên hay một tổ chức quốc tế phải chịu những trách nhiệm về các thiệt hại
do một thiếu sót của mình đối với những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo phần
này; các quốc gia thành viên hay các tổ chức quốc tế khi cùng hành động thì
phải liên đới chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, quốc gia thành viên không chịu trách
nhiệm về các thiệt hại do một thiếu sót như vậy của một người do quốc gia này
bảo trợ theo Điều 153; khoản 2, điểm b, nếu quốc gia này đã thi hành tất cả các
biện pháp cần thiết và thích hợp để bảo đảm việc tôn trọng thật sự phần này của
các phụ lục có liên quan, như đã trù định trong Điều 153, khoản 4 và Điều 4
khoản 4 của Phụ lục III.
3. Các quốc gia thành
viên là hội viên của các tổ chức quốc tế cần thi hành những biện pháp thích hợp
để bảo đảm việc áp dụng điều này đối với các tổ chức đó.
1. Các hoạt động trong
vùng được tiến hành, như đã được ghi nhận rõ ràng trong phần này, là vì lợi ích
của toàn thể loài người, không phụ thuộc vào vị trí của các quốc gia, dù là
quốc gia có biển hay không có biển, và có lưu ý đặc biệt đến các lợi ích và nhu
cầu của quốc gia đang phát triển và của các dân tộc chưa giành được nền độc lập
đầy đủ hay một chế độ tự trị khác được Liên hợp quốc thừa nhận theo đúng Nghị quyết
1514 (XV) và các nghị quyết tương ứng khác của Đại hội đồng.
2. Cơ quan quyền lực bảo
đảm việc phân chia công bằng, trên cơ sở không phân biệt đối xử, những lợi ích tài
chính và các lợi ích kinh tế khác do những hoạt động tiến hành trong Vùng qua một
bộ máy thích hợp theo đúng Điều 160 khoản 2, điểm f, điểm nhỏ i, đem lại.
Vùng để ngỏ cho tất cả các
quốc gia, dù quốc gia có biển hay không có biển, sử dụng vào những mục đích
hoàn toàn hòa bình, không phân biệt đối xử và không phương hại đến các điều quy
định khác của phần này.
1. Trong trường hợp các
vỉa tài nguyên của Vùng trải rộng ra ngoài ranh giới của Vùng, thì những hoạt
động tiến hành trong Vùng cũng được mở rộng như thế, nhưng phải tính đến các
quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia ven biển có quyền tài phán đối với các
vỉa tài nguyên nói trên.
2. Một phương thức tham
khảo ý kiến với quốc gia hữu quan, và nhất là phương thức thông báo trước, đặt
ra để tránh bất kỳ sự xâm phạm nào đến các quyền và lợi ích đó. Trong những
trường hợp mà các hoạt động tiến hành trong Vùng có thể dẫn đến việc khai thác
các tài nguyên ở phía trong các ranh giới thuộc quyền tài phán quốc gia của một
quốc gia ven biển thì cần phải có sự đồng ý trước của quốc gia này.
3. Phần này cũng như các
quyền được thừa nhận hay được sử dụng theo phần này, không xâm phạm đến quyền
của quốc gia ven biển được thi hành những biện pháp phù hợp với các quy định
tương ứng của phần XII có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế hay loại bỏ một mối
nguy hiểm nghiêm trọng và sắp xảy ra đối với vùng duyên hải của họ hoặc đối với
các lợi ích có liên quan do một tình trạng ô nhiễm hay một sự đe dọa ô nhiễm
nảy sinh từ tất cả các hoạt động tiến hành trong Vùng hay do tất cả các tai nạn
khác gây ra bởi các hoạt động đó.
1. Việc nghiên cứu khoa
học biển trong Vùng được tiến hành nhằm những mục đích hoàn toàn hòa bình và vì
lợi ích của toàn thể loài người theo đúng phần XIII.
2. Cơ quan quyền lực có
thể thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học biển đối với Vùng và các tài
nguyên của Vùng và có thể ký các hợp đồng nhằm mục đích này. Cơ quan quyền lực tạo
điều kiện thuận lợi, khuyến khích việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng;
phối hợp, phổ biến các kết quả của các công trình nghiên cứu và phân tích đó
khi chúng sẵn sàng sử dụng được.
3. Các quốc gia thành
viên có thể tiến hành các công trình nghiên cứu khoa học biển trong Vùng. Các
quốc gia này tạo điều kiện dễ dàng cho việc hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa
học biển trong vùng, bằng cách:
a) Tham gia các chương
trình quốc tế và khuyến khích việc hợp tác về nghiên cứu khoa học biển do nhân
viên của các nước và nhân viên của Cơ quan quyền lực thực hiện;
b) Quan tâm đến việc các
chương trình, được soạn thảo qua trung gian của Cơ quan quyền lực hay tùy theo
tình hình, qua trung gian của các tổ chức quốc tế khác, vì lợi ích của các quốc
gia đang phát triển và các quốc gia kém phát triển về mặt kỹ thuật, nhằm:
i. Tăng cường tiềm lực
nghiên cứu của họ;
ii. Đào tạo nhân viên của
quốc gia đó và nhân viên của Cơ quan quyền lực về kỹ thuật và về ứng dụng công trình
nghiên cứu tiến hành trong Vùng;
c) Phổ biến một cách có
hiệu quả các kết quả nghiên cứu và phân tích, khi các kết quả này có thể sử
dụng được, qua trung gian của Cơ quan quyền lực hay nếu có thể, qua các bộ máy
quốc tế khác.
1. Theo đúng Công ước, Cơ
quan quyền lực thi hành các biện pháp để:
a) Nắm được những kỹ
thuật và kiến thức khoa học liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng;
và
b) Tạo điều kiện thuận
lợi và khuyến khích việc chuyển giao cho các quốc gia đang phát triển các kỹ
thuật và kiến thức khoa học nói trên, sao cho mọi quốc gia thành viên đều được
hưởng.
2. Vì mục đích này, Cơ
quan quyền lực và các quốc gia thành viên hợp tác để thúc đẩy việc chuyển giao
kỹ thuật và các kiến thức khoa học liên quan đến những hoạt động tiến hành
trong Vùng sao cho Xí nghiệp và tất cả các quốc gia thành viên đều có thể được
hưởng. Đặc biệt, Cơ quan quyền lực và các quốc gia thành viên đề xuất hoặc
khuyến khích:
a) Các chương trình để
chuyển giao cho Xí nghiệp và cho các quốc gia đang phát triển các kỹ thuật liên
quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng, nhất là trù định cho Xí nghiệp và
các quốc gia đang phát triển, những điều kiện thuận lợi để nắm được các kỹ
thuật thích hợp theo những thể thức và các điều kiện công bằng hợp lý;
b) Những biện pháp nhằm
bảo đảm sự tiến bộ về kỹ thuật của Xí nghiệp và những kỹ thuật trong nước của
các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là tạo điều kiện cho nhân viên của Xí
nghiệp và của các quốc gia này được đào tạo về khoa học và kỹ thuật biển, cũng
như được tham gia đầy đủ vào các hoạt động tiến hành trong vùng.
Đối với các hoạt động
tiến hành trong Vùng, các biện pháp cần thiết phải được thi hành theo đúng Công
ước để bảo vệ có hiệu quả môi trường biển chống lại những tác hại có thể do các
hoạt động đó gây ra. Vì mục đích đó, Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy
định và thủ tục thích hợp, đặc biệt nhằm để:
a) Ngăn ngừa, hạn chế và
chế ngự nạn ô nhiễm môi trường biển, kể cả vùng duyên hải và đối phó với những
nguy cơ khác đe dọa môi trường đó, cũng như với bất kỳ sự biến động nào về tình
trạng cân bằng sinh thái của môi trường biển, bằng cách, đặc biệt chú ý đến sự
cần thiết phải bảo vệ môi trường chống lại những tác hại của những hoạt động
như khoan, nạo vét, đào, loại bỏ các chất thải, xây dựng và khai thác hay bảo
dưỡng các thiết bị, ống dẫn và các phương tiện khác được sử dụng vào các hoạt
động này;
b) Bảo vệ và bảo tồn các tài
nguyên thiên nhiên của Vùng và phòng ngừa thiệt hại đối với hệ thực vật và động
vật ở biển.
Đối với
các hoạt động tiến hành trong Vùng, những biện pháp cần thiết phải được thi
hành để bảo đảm việc bảo vệ có hiệu quả sự sống của con người. Vì mục đích ấy,
Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ tục thích hợp để bổ sung
cho pháp luật quốc tế hiện tại như đã ghi trong các hiệp ước về vấn đề này.
1. Các hoạt động được
tiến hành trong Vùng cần phải được quan tâm một cách hợp lý đến các hoạt động
khác đang được thực hiện trong môi trường biển.
2. Các điều kiện sau đây
được áp dụng cho các thiết bị được sử dụng cho các hoạt động tiến hành trong
Vùng:
a) Các thiết bị này chỉ
được xây lắp, bố trí và tháo gỡ theo đúng với phần này và trong các điều kiện
do các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực đề ra. Việc xây lắp,
bố trí và tháo gỡ chúng phải được thông báo đúng thủ tục và cần phải duy trì các
phương tiện thường trực để báo hiệu sự có mặt của các thiết bị đó;
b) Các thiết bị này không
được đặt ở các vị trí có thể gây trở ngại cho việc sử dụng các đường giao thông
được thừa nhận là thiết yếu đối với hàng hải quốc tế, cũng không được đặt trong
các vùng mật độ đánh cá tập trung;
c) Các thiết bị này được
các vùng an toàn bao quanh; các vùng an toàn này được đánh dấu một cách thích
hợp để bảo đảm an toàn cho bản thân và các thiết bị đó và cho hàng hải. Hình
thể và vị trí của các Vùng an toàn này được xác định sao cho chúng không tạo
thành một vành đai cản trở các tàu thuyền đi đến một số Vùng biển nào đó một
cách hợp pháp, hay cản trở giao thông trên các đường hàng hải quốc tế;
d) Các thiết bị này được
dùng vào những mục đích hoàn hòa bình;
e) Các thiết bị này không
có quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng; sự có mặt của chúng
không ảnh hưởng đến việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh
tế hay thềm lục địa.
3. Các hoạt động khác
diễn ra trong môi trường biển được tiến hành với sự chú ý đúng mức đến các hoạt
động được tiến hành trong Vùng.
Việc tham gia của các
quốc gia đang phát triển vào các hoạt động tiến hành trong Vùng được khuyến
khích, như đã được trù định rõ ràng trong phần này, với sự chú ý thích đáng đến
các nhu cầu và lợi ích đặc biệt của các quốc gia này, và nhất là nhu cầu đặc
biệt của các quốc gia đang phát triển không có biển hay ở vào hoàn cảnh địa lý
bất lợi, cần vượt qua những trở ngại do vị trí bất lợi của họ gây ra, đặc biệt
là vì họ ở xa Vùng và việc họ đến Vùng và rời khỏi Vùng đều khó khăn.
Tất cả các di vật khảo cổ
hay lịch sử tìm thấy ở trong Vùng, đều được bảo tồn hay nhượng lại, vì lợi ích
của toàn thể loài người, đặc biệt quan tâm đến các quyền ưu tiên của quốc gia
hay của nơi xuất xứ hoặc của quốc gia xuất xứ về văn hóa, hay còn của quốc gia
xuất xứ về lịch sử hay khảo cổ.
Các hoạt động tiến hành
trong Vùng, như đã được trù định rõ ràng trong phần này, phải làm sao tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển hài hòa nền kinh tế thế giới và sự mở rộng một
cách cân đối nền thương mại quốc tế, thúc đẩy hợp tác quốc tế vì sự phát triển
toàn diện của tất cả các quốc gia, và đặc biệt là các quốc gia đang phát triển,
và nhằm:
a) Khai thác các tài
nguyên của Vùng;
b) Quản lý một cách có phương
pháp, chắc chắn và hợp lý các tài nguyên của Vùng, đặc biệt quan tâm làm sao
cho các hoạt động tiến hành trong Vùng có hiệu quả, tránh bất kỳ sự lãng phí nào,
theo đúng những nguyên tắc đúng đắn về bảo tồn.
c) Tăng cường các khả
năng tham gia vào các hoạt động này, đặc biệt là phù hợp với Điều 144 và Điều
148;
d) Bảo đảm cho Cơ quan
quyền lực được dự phần vào các thu nhập và việc chuyển giao kỹ thuật cho Xí nghiệp
và cho các quốc gia đang phát triển theo đúng Công ước;
e) Tùy theo nhu cầu, tăng
thêm số lượng khoáng sản khai thác từ Vùng để cùng với các khoáng sản khai thác
từ nguồn khác, bảo đảm cung cấp cho người tiêu thụ các khoáng sản này;
f) Tạo điều kiện thuận
lợi để hình thành giá cả đúng và ổn định đối với các khoáng sản được khai thác
từ Vùng, cũng như các khoáng sản từ các nguồn khác, có lợi cho người sản xuất
và đúng mức cho người tiêu thụ, bảo đảm sự cân bằng lâu dài giữa cung và cầu;
g) Tạo cho tất cả các
quốc gia thành viên, bất kể chế độ xã hội và kinh tế hay địa lý của họ như thế
nào, có những khả năng to lớn hơn trong việc tham gia khai thác các tài nguyên
của Vùng, và ngăn cản việc độc quyền hóa các hoạt động tiến hành trong Vùng;
h) Bảo vệ các quốc gia
đang phát triển, theo đúng Điều 151, khỏi những ảnh hưởng bất lợi đối với nền
kinh tế hay thu nhập về xuất khẩu của họ do việc hạ giá của một khoáng sản trong
số các khoáng sản được khai thác trong Vùng hay do sự giảm bớt khối lượng xuất
khẩu loại khoáng sản này, trong chừng mực mà việc hạ giá hay giảm bớt đó do các
hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra;
i) Khai thác di sản chung
vì lợi ích của toàn thể loài người;
j) Làm sao cho những điều
kiện tiếp xúc với các thị trường để nhập khẩu các khoáng sản khai thác từ Vùng
và nhập khẩu những sản phẩm đầu tiên được rút ra từ những khoáng sản này, không
thuận lợi hơn những điều kiện thuận lợi nhất áp dụng cho việc nhập khẩu các
khoáng sản và các sản phẩm đầu tiên khai thác được từ các nguồn khác.
1. a) Không phương hại
đến những mục tiêu đã được nêu ở Điều 150 và nhằm áp dụng điểm h) của điều đó,
qua trung gian của các cấp thẩm quyền hiện có, hay nếu cần thì, trong khuôn khổ
của những dàn xếp hay hiệp định mới với sự tham gia của tất cả các bên hữu
quan, kể cả người sản xuất và người tiêu thụ, Cơ quan quyền lực thi hành các
biện pháp cần thiết để tạo thuận lợi cho sự gia tăng, sự hoạt động có hiệu quả
và sự ổn định của các thị trường đối với những sản phẩm đầu tiên rút ra từ các
khoáng sản khai thác trong Vùng, với giá cả có lợi cho người sản xuất và đúng
mức đối với người tiêu thụ. Tất cả các quốc gia thành viên hợp tác vì mục đích
này.
b) Cơ quan quyền lực có
quyền tham gia vào bất kỳ hội nghị sản phẩm nào bàn về những sản phẩm đầu tiên
này, và ở đó, tất cả các bên hữu quan, kể cả người sản xuất và người tiêu thụ,
đều tham dự. Cơ quan quyền lực có quyền trở thành thành viên của bất kỳ sự dàn xếp
hay hiệp định nào đạt được khi kết thúc những hội nghị như vậy. Đối với những
vấn đề có liên quan đến việc sản xuất trong Vùng, Cơ quan quyền lực tham gia
vào bất kỳ cơ quan nào được lập ra theo dàn xếp hay hiệp định đã nêu trên theo
đúng các quy tắc có liên quan đến cơ quan đó.
c) Cơ quan quyền lực làm
tròn các nghĩa vụ được giao phó theo các dàn xếp hay hiệp định nói ở khoản này,
bảo đảm cho các dàn xếp hay hiệp định đó được áp dụng thống nhất và không phân
biệt đối xử đối với toàn bộ việc sản xuất các khoáng sản có liên quan trong
vùng. Làm như thế, Cơ quan quyền lực hành động một cách phù hợp với các điều khoản
của các hợp đồng hiện hành và các quy định của những kế hoạch làm việc của Xí
nghiệp đã được chuẩn y.
2. a) Trong giai đoạn quá
độ được định rõ ở khoản 3, việc sản xuất hàng hóa chỉ có thể bắt đầu dưới danh nghĩa
một kế hoạch làm việc đã được chuẩn y, nếu người khai thác đã xin phép Cơ quan
quyền lực và đã được Cơ quan quyền lực cho phép sản xuất; Việc cho phép này
không thể xin hay cấp trước thời hạn dự kiến bắt đầu sản xuất hàng hóa theo kế
oạch làm việc quá 5 năm, trừ khi Cơ quan quyền lực quy định một thời hạn khác
trong các quy tắc, quy định và thủ tục của mình, căn cứ vào tính chất và tiến
trình thực hiện các dự án;
b) Trong đơn xin phép của
mình, người khai thác ghi rõ số lượng kền hàng năm dự kiến khai thác theo kế
hoạch làm việc đã được chuẩn y. Đơn này gồm có 1 bảng chi phí mà, sau khi nhận
được giấy phép, sẽ được người khai thác thực hiện và đã được tính toán một cách
hợp lý để cho phép người khai thác bắt đầu việc sản xuất hàng hóa vào thời điểm
đã được dự định.
c) Để áp dụng các điểm a và
b, Cơ quan quyền lực định ra các quy phạm về hiệu quả, theo đúng Điều 17 của
Phụ lục III.
d) Cơ quan quyền lực cấp
một giấy phép sản xuất theo số lượng được ghi rõ trong đơn yêu cầu, trừ khi
tổng số lượng này và những số lượng được phép trước đây vượt quá, đối với bất
cứ một năm sản xuất nào trong giai đoạn quá độ, mức cao nhất về sản lượng kền được
tính toán theo đúng khoản 4 cho năm mà giấy phép được cấp;
e) Đơn xin và cấp giấy
phép sản xuất trở thành bộ phận hữu cơ của kế hoạch làm việc được chuẩn y;
f) Nếu đơn xin phép của
người khai thác bị từ chối theo điểm d, người này bất cứ lúc nào cũng có thể
nộp đơn mới cho Cơ quan quyền lực.
3. Giai đoạn quá độ bắt
đầu 5 năm trước ngày mùng 1 tháng Giêng của năm dự tính bắt đầu việc sản xuất
hàng hóa đầu tiên với danh nghĩa của một kế hoạch làm việc đã được chuẩn y.
Trong trường hợp việc bắt đầu sản xuất hàng hóa bị hoãn đến một năm nào đó sau
năm đã dự kiến thì thời điểm bắt đầu của giai đoạn quá độ và mức tối đa của sản
lượng tính toán ban đầu được điều chỉnh lại cho phù hợp. Giai đoạn quá độ kết
thúc sau 25 năm, hoặc cho đến khi kết thúc Hội nghị xét duyệt lại được nêu ở
Điều 155, hay cho đến ngày mà các thỏa thuận hay hiệp định mới đề cập ở khoản 1
có hiệu lực, thời hạn nào gần nhất thì được sử dụng, nếu các thỏa thuận hay
hiệp định đó đã trở nên hết hiệu lực hay không còn tác dụng vì một lý do nào
đó, thì những quyền được trù định trong điều này đối với phần còn lại của giai
đoạn quá độ được trao lại cho Cơ quan quyền lực.
4. a) Mức sản xuất tối đa
có hiệu lực cho bất cứ một năm nào của giai đoạn quá độ có được do tổng của:
i. Số chênh lệch giữa giá
trị của đường biểu diễn xu hướng tiêu thụ kền cho năm trước năm bắt đầu sản
xuất hàng hóa đầu tiên và giá trị của đường biểu diễn đó cho năm ngay trước khi
bắt đầu giai đoạn quá độ, các giá trị đó được tính theo đúng điểm b; và
ii. 60% số chênh lệch
giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng tiêu thụ kền cho năm xin cấp giấy
phép sản xuất và giá trị của đường biểu diễn này cho năm trước năm bắt đầu sản
xuất hàng hóa đầu tiên; những giá trị này được tính toán theo đúng điểm h.
b) Trong điểm a này:
i. Những giá trị của
đường biểu diễn xu hướng được sử dụng để tính toán mức sản lượng kền tối đa là
những giá trị tiêu thụ kền hàng năm thể hiện trên một đường biểu diễn xu hướng
độc lập nên trong năm cấp giấy phép sản xuất. Đường biểu diễn đó được lập ra
theo phép hồi quy tuyến tính lô-ga-rít các số liệu vầ mức tiêu thụ kền thực sự
hàng năm tương ứng với giai đoạn 15 năm gần nhất mà người ta có các số liệu,
thời gian được coi là biến số thiên độc lập. Đường biểu diễn xu hướng này được
gọi là đường biểu diễn xu hướng ban đầu;
ii. Nếu tỷ suất tăng hàng
năm được thể hiện trên đường biểu diễn xu hướng dưới 30% để xác định các số
lượng đã nói ở điểm a, người ta thay đường biểu diễn này bằng một đường biểu
diễn xu hướng lập ra sao cho nó cắt đường biểu diễn xu hướng ban đầu ở điểm
biểu thị giá trị tiêu thụ cho năm đầu của thời kỳ 15 năm được xem xét, và để
cho độ dốc của nó phù hợp với một sự gia tăng hàng năm là 3%. Tuy nhiên, sản
lượng tối đa được quy định cho một năm nào đó của giai đoạn quá độ trong bất kỳ
trường hợp nào cũng không thể vượt quá số chênh lệch giữa giá trị của đường
biểu diễn xu hướng ban đầu cho năm xem xét đó và giá trị của đường biểu diễn
này cho năm ngay trước khi bắt đầu giai đoạn quá độ.
5. Đối với mức sản xuất ban
đầu của Xí nghiệp, Cơ quan quyền lực dành cho Xí nghiệp một số lượng 38.000 tấn
kền trên số lượng được ấn định là sản lượng tối đa theo đúng khoản 4;
6. a) Trong một năm nào
đó, một người khai thác có thể sản xuất dưới mức sản xuất hàng năm các khoáng
sản lấy từ các khối đa kim đã ghi trong giấy phép sản xuất của mình hoặc vượt
qua mức đó, tối đa là 8%, miễn là tổng sản lượng không vượt quá sản lượng ghi
trong giấy phép. Bất kỳ sự vượt quá nào trong khoảng từ 8% đến 20% đối với một
năm nào đó hay bất kỳ sự vượt quá nào đối với một năm tiếp theo 2 năm liên tiếp
trong đó mức sản xuất ấn định bị vượt, đều phải thương lượng với Cơ quan quyền
lực; Cơ quan quyền lực có thể đòi người
khai thác phải xin một giấy phép sản xuất bổ sung.
b) Cơ quan quyền lực chỉ
xét các đơn yêu cầu sản lượng bổ sung, khi mà cơ quan đó đã xét xong tất cả các
đơn xin sản xuất đang chờ giải quyết và đã xem xét đúng mức đến các khả năng
còn có những đơn vị khác nữa.
Về vấn đề này nguyên tắc
chỉ đạo của Cơ quan quyền lực là trong bất cứ một năm nào của giai đoạn quá độ
không được vượt quá tổng sản lượng được phép sản xuất theo công thức hạn chế
sản lượng. Cơ quan quyền lực không cho phép bất cứ một kế hoạch làm việc nào
sản xuất một khối lượng vượt quá 46.500 tấn kền trong một năm.
7. Sản lượng các kim loại
khác như đồng, cô-ban và măng-gan rút ra từ các khối đa kim được khai thác theo
một giấy phép sản xuất, không được vượt quá mức có thể đạt được, nếu như những
người khai thác đã lấy ra từ các khối đa kim này số lượng kền tối đa tính đúng
theo điều này. Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ tục theo
đúng Điều 17 của Phụ lục III, trong đó có trù định các thể thức thi hành những
khoản này.
8. Các quyền và nghĩa vụ liên
quan đến các tập quán kinh tế không chính đáng được trù định trong khuôn khổ và
các hiệp định thương mại nhiều bên tương ứng, được áp dụng vào công việc thăm dò
và khai thác khoáng sản trong Vùng. Để giải quyết các tranh chấp thuộc phạm vi
điều quy định này, các quốc gia thành viên tham gia vào các hiệp định thương
mại nhiều bên nói trên dựa vào các thủ tục giải quyết các tranh chấp được trù
định trong các hiệp định đó.
9. Cơ quan có quyền hạn
chế mức sản xuất các khoáng sản trong Vùng, ngoài các khoáng sản rút ra từ các khối
đa kim, theo các điều kiện và phương pháp mà Cơ quan quyền lực cho là thích hợp,
bằng cách thông qua các quy tắc theo đúng Điều 161, khoản 8.
10. Theo kiến nghị của
Hội đồng, dựa trên ý kiến của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, Đại hội đồng định ra
một chế độ bù trừ hoặc thi hành các biện pháp trợ giúp khác, có tác dụng tạo
điều kiện dễ dàng cho việc điều chỉnh kinh tế, kể cả việc hợp tác với các cơ
quan chuyên trách hay các tổ chức quốc tế khác, đề giúp đỡ các nước đang phát
triển mà nền kinh tế và thu nhập xuất khẩu bị ảnh hưởng nghiêm trọng trước
những tác động bất lợi do một khoáng sản trong số các khoáng sản được khai thác
từ Vùng bị hạ giá hay do khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản đuộc khai thác từ
Vùng bị hạ giá hay do khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản này của họ giảm sút,
trong chừng mực mà việc hạ giá hay giảm sút khối lượng này do các hoạt động
trong Vùng gây nên. Cơ quan quyền lực tiến hành nghiên cứu về những vấn đề của
các quốc gia có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề nhất, nhằm giảm đến mức tối thiểu những
khó khăn của họ, và để giúp đỡ họ tiến hành điều chỉnh kinh tế theo yêu cầu của
họ.
1. Cơ quan quyền lực tránh
mọi sự phân biệt đối xử trong khi thi hành quyền hạn và chức năng của mình,
nhất là khi Cơ quan quyền lực cho phép tiến hành các hoạt động trong Vùng.
2. Tuy nhiên, theo các
điều được quy định rõ ràng của phần này, Cơ quan quyền lực có thể dành sự qua
tâm đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển, và đặc biệt là những quốc gia
không có biển hay bất lợi về địa lý trong số các quốc gia phát triển này.
1. Các hợp đồng tiến hành
trong Vùng được Cơ quan quyền lực thay mặt cho toàn thể loài người tổ chức,
thực hiện và kiểm soát theo đúng điều này, và theo đúng các quy định tương ứng
khác của phần này và phụ lục liên quan đến các hoạt động đó, cũng như, các quy
tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
2. Các hoạt động tiến hành
trong Vùng theo đúng khoản 3 do các thành phần sau đây tiến hành:
a) Xí nghiệp và,
b) Kết hợp với Cơ quan
quyền lực, các quốc gia thành viên hay các xí nghiệp Nhà nước, hoặc các tự
nhiên nhân hay pháp nhân có quốc tịch của các quốc gia thành viên hay do quốc
gia đó hoặc các công dân của các quốc gia đó kiểm soát thực sự, khi họ được sự
bảo trợ của các quốc gia này hoặc của bất kỳ một nhóm nào thuộc những loại kể
trên đáp ứng các điều kiện được quy định trong phần này và ở Phụ lục III;
3. Các hoạt động tiến
hành trong Vùng phải theo một kế hoạch làm việc chính thức và bằng văn bản,
được lập ra theo đúng phụ lục III và được Hội đồng chuẩn y, sau khi được Ủy ban
pháp lý và kỹ thuật xem xét. Trong trường hợp các hoạt động tiến hành trong
vùng theo giấy phép của Cơ quan quyền lực do các thể hay cá nhân nói ở khoản 2,
điểm b thực hiện, kế hoạch làm việc mang hình thức của một hợp đồng, theo đúng
Điều 3 của Phụ lục III. Hợp đồng có thể trù định các thỏa thuận về liên doanh
theo đúng Điều 11 của Phụ lục III.
4. Cơ quan quyền lực thực
hiện kiểm soát cần thiết đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng, để bảo đảm
tôn trọng các quy định tương ứng của phần này và của các phụ lục có liên quan,
các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, cũng như, các kế hoạch
làm việc được chuẩn y theo đúng khoản 3. Các quốc gia thành viên giúp đỡ Cơ
quan quyền lực bằng cách thi hành tất cả các biện pháp cần thiết để bảo đảm tôn
trọng các văn bản này theo đúng Điều 139.
5. Bất kỳ lúc nào, Cơ
quan quyền lực cũng có quyền thi hành mọi biện pháp được trù định trong phần
này để bảo đảm tôn trọng phần này và để có thể thi hành các chức năng kiểm soát
và ra quy định của mình theo phần này hay theo một hợp đồng. Cơ quan quyền lực
có quyền kiểm tra tất cả các thiết bị được sử dụng để tiến hành các hoạt động
trong Vùng và được đặt ở trong Vùng.
6. Mọi hợp đồng được ký
kết theo đúng khoản 3 đều trù định việc bảo đảm danh nghĩa.
Do vậy, chỉ có thể xét
lại, tạm hoãn hay hủy bỏ hợp đồng theo các điều 18 và 19 của Phụ lục III.
Cứ 5 năm một lần kể từ
khi Công ước có hiệu lực, Đại hội đồng lại tiến hành một cuộc xem xét chung và
có hệ thống xem chế độ quốc tế của Vùng do Công ước lập ra đã hoạt động trong
thực tiễn như thế nào. Dựa vào kết quả của cuộc xem xét này, Đại hội đồng có
thể thi hành hay khuyến nghị cho các cơ quan khác thi hành các biện pháp phù
hợp với các quy định, thủ tục được trù định trong phần này và các phụ lục có
liên quan và cho phép cải tiến sự hoạt động của chế độ.
1. 15 năm sau ngày mùng 1
tháng Giêng của năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên theo một kế hoạch làm
việc đã được chuẩn y, Đại hội đồng sẽ triệu tập một hội nghị để xét duyệt lại
các quy định của phần này và các phụ lục có liên quan, điều chỉnh hệ thống thăm
dò và khai thác tài nguyên của Vùng. Dưới ánh sáng của kinh nghiệm thu được
trong giai đoạn qua, hội nghị sẽ xem xét cụ thể:
a) Các quy định trong phần
này điều chỉnh hệ thống thăm dò và khai thác tài nguyên của Vùng có đạt được
những mục tiêu của chúng về mọi mặt không, và nhất là xem toàn thể loài người
có được hưởng lợi do các quy định đó đem lại không;
b) Xem trong thời hạn 15 năm
này, các khu vực dành riêng có được khai thác một cách có hiệu quả và cân đối
so với các khu vực không được dành riêng không;
c) Xem việc khai thác và
sử dụng Vùng và các tài nguyên của Vùng có được tiến hành theo cách tạo thuận
lợi cho việc phát triển hài hòa của nền kinh tế thế giới và việc mở rộng cân
đối nền thương mại quốc tế không;
d) Xem sự độc quyền hóa các
hoạt động tiến hành trong Vùng được ngăn ngừa hay không;
e) Xem xét các chính sách
đã nêu ở các Điều 150 và 151 có được tuân thủ không; và
f) Hệ thống có cho phép
phân chia một cách công bằng những mối lợi thu được từ các hoạt động tiến hành
trong Vùng, với sự quan tâm đặc biệt đến lợi ích và nhu cầu của các quốc gia
đang phát triển không.
2. Hội nghị xét duyệt
quan tâm đến việc giữ vững nguyên tắc di sản chung của loài người, chế độ quốc
tế nhằm khai thác công bằng di sản đó vì lợi ích của tất cả các quốc gia, đặc
biệt là các quốc gia đang phát triển, và sự tồn tại của một Cơ quan quyền lực có
trách nhiệm tổ chức tiến hành và kiểm soát các hoạt động trong vùng. Hội nghị
cũng quan tâm đến việc duy trì các nguyên tắc đã được nêu trong phần này có
liên quan đến việc loại trừ mọi yêu sách và mọi sự thực hiện chủ quyền ở một
khu vực nào đó của Vùng, đến các quyền của các quốc gia và thái độ chung của họ
có quan hệ đến Vùng, cũng như việc tham gia của họ vào các hoạt động được tiến
hành trong Vùng theo đúng Công ước, đến việc độc quyền hóa các hoạt động tiến
hành trong Vùng, việc chỉ sử dụng Vùng vào những mục đích hòa bình, những
phương diện kinh tế của các hoạt động tiến hành trong Vùng, việc nghiên cứu khoa
học biển, việc chuyển giao kỹ thuật, việc bảo vệ môi trường biển, và bảo vệ sự
sống của con người, các quyền của các quốc gia ven biển, chế độ pháp lý của
vùng nước và vùng trời phía trên Vùng và sự phù hợp giữa các hoạt động tiến
hành trong Vùng và các hoạt động khác trong môi trường biển.
3. Thủ tục ra quyết định
áp dụng trong Hội nghị cũng là thủ tục đã áp dụng ở Hội nghị về luật biển lần
thứ ba của Liên hợp quốc. Hội nghị sẽ cố gắng hết sức để đi đến thỏa thuận về tất
cả các điểm sửa đổi nếu có, bằng consensus (thỏa thuận), và chỉ biểu quyết các
vấn đề đó, sau khi đã cố gắng hết sức mà không đi đến consensus (thỏa thuận).
4. Năm năm sau khi bắt
đầu hội nghị xét duyệt lại, nếu không đi đến được thỏa thuận về hệ thống thăm
dò và khai thác tài nguyên của Vùng thì trong vòng 12 tháng sau đó, Hội nghị có
thể quyết định theo đa số ba phần tư các quốc gia thành viên thông qua và đưa
ra cho các quốc gia thành viên phê chuẩn hay tham gia đối với những điều sửa
đổi dẫn đến sự thay đổi hay sửa đổi hệ thống, mà Hội nghị xét thấy cần thiết và
thích hợp. Những điều sửa đổi này sẽ có hiệu lực đối với tất cả các quốc gia
thành viên 12 tháng sau ngày gửi lưu chiểu những văn kiện phê chuẩn hay tham
gia ba phần tư quốc gia thành viên.
5. Những điểm sửa đổi
được hội nghị xét duyệt lại thông qua điều này, sẽ không đụng chạm đến các
quyền đã có được theo các hợp đồng hiện hành.
1. Một Cơ quan quyền lực
quốc tế về đáy biển được lập ra, hoạt động theo sự điều chỉnh của phần này.
2. Tất cả các quốc gia
thành viên là những thành viên ipso facto (tất nhiên) của Cơ quan quyền lực.
3. Các quan sát viên ở
Hội nghị lần thứ 3 của Liên hợp quốc về luật biển đã ký vào Định ước cuối cùng
và không nằm trong phạm vi Điều 305, khoản 1, điểm c, d, e hay f có quyền tham dự
vào các công việc của Cơ quan quyền lực với tư cách quan sát viên theo đúng các
quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
4. Cơ quan quyền lực đặt
trụ sở ở Gia-mai-ca.
5. Cơ quan quyền lực có
thể lập ra các trung tâm hay các cơ quan chỉ đạo khu vực xét thấy cần thiết để
thi hành chức năng của mình.
1. Cơ quan quyền lực là
tổ chức mà qua đó, các quốc gia thành viên tổ chức và kiểm soát các hoạt động tiến
hành trong Vùng, đặc biệt là nhằm mục đích quản lý các tài nguyên của Vùng theo
đúng phần này.
2. Cơ quan quyền lực nắm
các quyền hạn và chức năng Công ước giao phó một cách rõ ràng. Cơ quan quyền
lực có những quyền hạn và chức năng nói trên đối với những hoạt động tiến hành
trong Vùng.
3. Cơ quan quyền lực được
thành lập trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền của tất cả các thành viên.
4. Để bảo đảm cho mỗi
thành viên các quyền và lợi ích do tư cách thành viên mà có, tất cả các thành
viên của Cơ quan quyền lực phải làm tròn một cách trung thực những nghĩa vụ của
họ theo phần này.
1. Một đại hội đồng, một
Hội đồng và một Ban thư ký được lập ra là những cơ quan chính của Cơ quan quyền
lực.
2. Một Xí nghiệp được lập
ra là cơ quan mà thông qua đó, cơ quan quyền lực thi hành các chức năng được
nêu ở Điều 170, khoản 1.
3. Các cơ quan phụ trợ được
coi là cần thiết có thể được thành lập theo đúng phần này.
4. Mỗi cơ quan chính của
Cơ quan quyền lực và Xí nghiệp có nhiệm vụ thi hành những quyền hạn và chức
năng đã được giao phó. Trong khi thi hành các quyền hạn và chức năng này, mỗi
cơ quan tránh những hành động có thể đụng cham hoặc làm hại cho việc thi hành
các quyền hạn và chức năng riêng đã được giao phó cho một cơ quan khác.
1. Đại hội đồng bao gồm
tất cả các thành viên của Cơ quan quyền lực. Mỗi thành viên có một đại diện ở Đại
hội đồng, người này có thể có những người thay thế và cố vấn đi theo.
2. Đại hội đồng họp thường
kỳ hàng năm, và họp bất thường theo quyết định của Đại hội đồng hay do Tổng thư
ký triệu tập theo yêu cầu của Hội đồng hay của đa số các thành viên của Cơ quan
quyền lực.
3. Các khóa họp của Đại
hội đồng được tiến hành tại trụ sở của Cơ quan quyền lực, trừ khi Đại hội đồng
có quyết định khác.
4. Đại hội đồng thông qua
quy chế nội bộ của mình. Mỗi khi khai mạc khóa họp thường kỳ, Đại hội đồng bầu
ra chủ tịch và số ủy viên cần thiết khác của cơ quan chỉ đạo. Những người này
lãnh trách nhiệm cho đến khi bầu cử một cơ quan chỉ đạo mối ở khóa họp thường
kỳ tiếp theo.
5. Số đại biểu cần thiết
(quorum) là đa số thành viên của Đại hội đồng.
6. Mỗi thành viên của Đại
hội đồng có một phiếu.
7. Các quyết định về
những vấn đề thủ tục kể cả việc triệu tập một khóa họp bất thường của Đại hội
đồng được thông qua theo đa số thành viên có mặt và bỏ phiếu.
8. Các quyết định về các
vấn đề nội dung phải được hai phần ba thành viên có mặt và bỏ phiếu thông qua,
với điều kiện là đa số này phải gồm đa số các thành viên tham dự khóa họp.
Trong trường hợp còn nghi ngờ không rõ có phải là một vấn đề nội dung hay
không, thì vấn đề bàn cãi đó được coi như là một vấn đề nội dung, trừ trường
hợp Cơ quan quyền lực có quyết định khác theo đa số cần thiết đối với những
quyết định về các vấn đề nội dung.
9. Khi một vấn đề nội
dung sắp được đem ra biểu quyết lần đầu thì Chủ tịch có thể hoãn và nếu có ít
nhất một phần năm số thành viên của Đại hội đồng yêu cầu, thì cần phải hoãn
việc biểu quyết về điểm này trong một thời hạn không được quá 5 ngày. Quy tắc
này chỉ có thể được áp dụng một lần đối với cùng một vấn đề, và việc áp dụng
quy tắc này không được làm cho vấn đề bị hoãn đến quá ngày kết thúc khóa họp.
10. Khi có ít nhất một
phần tư số thành viên của Đại hội đồng thỉnh cầu bằng một văn bản gửi lên Chủ
tịch Đại hội đồng, yêu cầu các Đại hội đồng lấy ý kiến tư vấn xem một đề nghị
đưa ra Đại hội đồng yêu cầu Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy
biển của Tòa án quốc tế về luật biển có ý kiến tư vấn. Cuộc biểu quyết được
hoãn đến khi Viện phát biểu ý kiến. Nếu trước khi khóa họp kết thúc một tuần mà
chưa nhận được ý kiến tư vấn thì Đại hội đồng quyết định thời gian sẽ họp lại
để biểu quyết về đề nghị đã bị hoãn lại đó.
1. Đại hội đồng, cơ quan
duy nhất bao gồm tất cả các thành viên của Cơ quan quyền lực, được coi là cơ
quan tối cao của Cơ quan quyền lực; Các cơ quan chính khác chịu trách nhiệm
trước nó, như đã được quy định rõ ràng trong Công ước; Đại hội đồng có quyền, căn
cứ vào các quy định tương ứng của Công ước quyết định chính sách chung của Cơ
quan quyền lực về bất kỳ vấn đề gì hay về bất kỳ việc gì thuộc thẩm quyền của
Cơ quan quyền lực.
2. Ngoài ra, Đại hội đồng
còn có các quyền hạn và chức năng sau đây:
a) Bầu ra các ủy viên của
Hội đồng theo đúng Điều 161;
b) Bầu ra Tổng thư ký
trong số các ứng cử viên do Hội đồng đề nghị;
c) Dựa vào giới thiệu của
Hội đồng, bầu ra các ủy viên của Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Xí nghiệp;
d) Nếu cần, thì thành lập
các cơ quan phụ trợ để có thể làm tròn các chức năng của mình theo đúng phần
này. Về cơ cấu của các cơ quan phụ trợ này cần phải chú ý thích đáng đến nguyên
tắc phân bổ công bằng theo địa lý về các thành viên, đến các lợi ích riêng biệt
và đến sự cần thiết bảo đảm cho các cơ quan này tuyển chọn được các thành viên
có trình độ và thông thạo trong những lĩnh vực mà họ đảm nhiệm;
e) Quy định phần đóng góp
của các thành viên vào ngân sách hành chính của Cơ quan quyền lực theo một
ba-rem đã được sử dụng cho ngân sách thông thường của Liên hợp quốc, cho đến
khi Cơ quan quyền lực có được các khoản thu nhập lấy từ các nguồn khác đủ để
trang trải các chi phí hành chính của mình;
f) i. Dựa vào kiến nghị
của Hội đồng, xem xét và phê chuẩn các quy tắc, quy định và thủ tục liên quan
đến việc phân chia công bằng từ các mối lợi về tài chính và các mối lợi về kinh
tế khác thu được từ những hoạt động tiến hành trong Vùng cũng như những đóng
góp được trù định ở Điều 82, có quan tâm đặc biệt đến các quyền lợi và nhu cầu
của các nước đang phát triển và các dân tộc chưa giành được độc lập hoàn toàn hay
chưa được hưởng một chế độ tự trị khác. Nếu đại hội đồng không tán thành các
kiến nghị của Hội đồng, thì gửi trả lại các kiến nghị đó cho Hội đồng đề Hội
đồng xem xét lại dưới ánh sáng các quan điểm mà Đại hội đồng đã nêu ra;
ii. Xem xét và phê chuẩn
các quy tắc, qui định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, cũng như tất cả những
điều sửa đổi đối với văn bản này, mà Hội đồng đã tạm thời chấp nhận theo Điều
162, khoản 2, điểm c, ii. Các quy tắc, quy định và thủ tục này nhằm vào việc
thăm dò, khảo sát và khai thác trong Vùng, vào vấn đề quản lý tài chính và vấn
đề hành chính nội bộ của Cơ quan quyền lực và, trên cơ sở kiến nghị của Hội đồng
quản trị của Xí nghiệp, vào vấn đề chuyển khoản của Xí nghiệp sang cho Cơ quan
quyền lực;
g) Quyết định việc phân
chia công bằng các mối lợi về tài chính và các mối lợi về kinh tế khác có được
từ các hoạt động tiến hành trong Vùng, một cách phù hợp với Công ước và các quy
định và thủ tục của Cơ quan quyền lực;
h) Xem xét và phê chuẩn dự
trù ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực mà Hội đồng đã đệ trình lên;
i) Xem xét và báo cáo
định kỳ của Hội đồng và của Xí nghiệp, cũng như các báo cáo đặc biệt mà Đại hội
đồng yêu cầu Hội đồng và bất kỳ cơ quan nào của Cơ quan quyền lực trình lên;
j) Cho tiến hành các cuộc
nghiên cứu và soạn thảo các kiến nghị nhằm đẩy mạnh hợp tác quốc tế liên quan đến
các hoạt động tiến hành trong vùng, và khuyến khích sự phát triển pháp luật
quốc tế theo hướng tiến bọ và pháp điển hóa bước phát triển đó;
k) Xem xét những vấn đề
có tính chất chung có liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng, đặc
biệt là những vấn đề nảy sinh đối với các quốc gia đang phát triển, cũng như
đối với những vấn đề mà các hoạt động này đặt ra đối với một số quốc gia, do vị
trí địa lý của họ, nhất là các quốc gia không có biển và các quốc gia có hoàn
cảnh địa lý bất lợi;
l) Theo kiến nghị của Hội
đồng, dựa vào ý kiến của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, lập ra một chế độ bù trừ
hay thi hành các biện pháp giúp đỡ khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc
điều chỉnh kinh tế như đã trù định trong Điều 151, khoản 10;
m) Tuyên bố đình chỉ các
quyền và các đặc quyền gắn liền với tư cách thành viên theo Điều 185;
n) Thảo luận bất kỳ vấn đề
gì hay việc gì thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực và quyết định một cách phù
hợp với việc phân chia các quyền và chức năng giữa các cơ quan quyền lực xem cơ
quan nào sẽ giải quyết một vấn đề gì hay một việc gì chưa được giao dứt khoát
cho các cơ quan đó.
1. Hội đồng gồm 36 ủy
viên của Cơ quan quyền lực do Đại hội đồng bầu ra theo thứ tự như sau:
a) Bốn ủy viên được lựa chọn
trong số các quốc gia thành viên mà việc tiêu thụ hay nhập khẩu thuần túy các sản
phẩm cơ bản thuộc các loại khoáng sản được khai thác trong vùng vượt quá 2% mức
tiêu thụ hay mức nhập khẩu của thế giới về các sản phẩm đó trong khoảng thời
gian 5 năm lại đây có số liệu thống kê; trong số 4 ủy viên này, ít nhất phải có
một quốc gia thuộc khu vực Đông Âu (xã hội chủ nghĩa) cũng như quốc gia tiêu
thụ lớn nhất;
b) Bốn ủy viên được lựa
chọn trong số tám quốc gia thành viên; những quốc gia này, trực tiếp hoặc qua
trung gian của các công dân nước mình, đã được thực hiện những khoản đầu tư
quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực hiện những khoản đầu tư quan trọng
nhất cho việc chuẩn bị và thực hiện các hoạt động tiến hành trong Vùng; trong
số bốn ủy viên này, ít nhất phải có một số quốc gia thuộc khu vực Đông Âu (xã
hội chủ nghĩa);
c) Bốn ủy viên được lựa
chọn trong số tám quốc gia thành viên; những quốc gia này, trực tiếp hoặc qua
trung gian của các công dân nước mình, đã thực hiện những khoản đầu tư quan
trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực hiện các hoạt động tiến hành trong Vùng;
trong số bốn ủy viên này, ít nhất phải có hai quốc gia đang phát triển mà nền
kinh tế bị lệ thuộc nặng nề vào việc xuất khẩu các khoáng sản này;
d) Sáu ủy viên được lựa chọn
trong số các quốc gia thành viên đang phát triển và đại diện cho những lợi ích đặc
biệt. Những lợi ích đặc biệt phải được đại diện bao gồm những lợi ích của các
quốc gia có dân số đông, của các quốc gia không có viển hay ở vào hoàn cảnh địa
lý bất lợi, của các quốc gia trong số các quốc gia nhập khẩu chủ yếu các loại
khoáng sản sẽ được khai thác trong Vùng, của các quốc gia có tiềm năng sản xuất
các khoáng sản đó và của các quốc gia kém phát triển nhất;
e) Mười tám ủy viên được
bầu theo nguyên tắc phân bổ công bằng theo địa lý đối với toàn bộ số thành viên
của Hội đồng; tất nhiên là theo quy định này, cứ mỗi vùng địa lý có ít nhất là
một quốc gia được bầu làm ủy viên. Các khu vực địa lý nói ở đây là Châu Phi,
châu Mỹ la – tinh, châu Á, Đông Âu (xã hội chủ nghĩa), cũng như Tây Âu và các
quốc gia khác.
2. Khi bầu các ủy viên
của Hội đồng theo đúng khoản 1, Đại hội đồng phải chú ý đến:
a) Đại diện của các quốc
gia không có biển và của các quốc gia có hoàn cảnh địa lý bất lợi tương ứng một
cách hợp lý với sự đại diện của họ tại Đại hội đồng;
b) Đại diện của các quốc
gia ven biển, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, không có đầy đủ các
điều kiện đã nêu ở khoản 1, điểm a, b, c hay d, tương ứng một cách hợp lý với
sự đại diện của họ ở Đại hội đồng;
c) Mỗi nhóm quốc gia thành
viên được có đại diện ở Hội đồng sẽ do các ủy viên được nhóm đó chỉ định, tùy
theo tình hình làm đại diện.
3. Các cuộc bầu cử được
tiến hành trong một khóa họp thường lệ của Đại hội đồng. Mỗi một ủy viên của Hội
đồng được bầu với nhiệm kỳ là bốn năm. Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử các ủy viên
của Hội đồng lần đầu, một nữa số ủy viên đại diện cho mỗi nhóm nước nói ở khoản
1 có nhiệm kỳ là 2 năm.
4. Các ủy viên của Hội
đồng có thể được tái cử, nhưng cần phải chú ý thích đang đến việc bảo đảm sự
luân phiên của các ủy viên.
5. Hội đồng thi hành chức
trách của mình ở trụ sở của Cơ quan quyền lực; Hội đồng nhóm họp theo yêu cầu hoạt
động của Cơ quan quyền lực và, trong bất kỳ trường hợp nào, cũng bảo đảm mỗi
năm họp ba lần.
6. Số đại biểu cần thiết
(quorum) là đa số ủy viên của Hội đồng.
7. Mỗi ủy viên của Hội
đồng có một phiếu.
8. a) Các quyết định về
các vấn đề thủ tục được thực hiện theo đa số các ủy viên có mặt và bỏ phiếu.
b) Các quyết định về
những vấn đề nội dung được đề ra liên quan đến Điều 162, khoản 2, điểm f, g, h,
I, n, p, v và Điều 191, được thông qua theo đa số hai phần ba các ủy viên có
mặt và bỏ phiếu, với điều kiện là đa số này phải bao gồm đa số các ủy viên của
Hội đồng;
c) Các quyết định về
những vấn đề nội dung được đặt ra liên quan đến các điều quy định liệt kê sau
đây phải được đa số ba phần tư các ủy viên có mặt và tham gia bỏ phiếu thông
qua, với điều kiện là đa số này phải bao gồm đa số các ủy viên của Hội đồng:
Điều 162, khoản 1; Điều 162, khoản 2, điểm a, b, c, d, e, l, q, r, s, t; Điều
162, khoản 2, điểm u, trong những trường hợp một người ký hợp đồng hay quốc gia
bảo trợ người đó không thực hiện hợp đồng; Điều 162, khoản 2, điểm w, với điều kiện
các lệnh được đưa ra theo điểm này chỉ có thể là bắt buộc quá 30 ngày, nếu nó
được một quyết định phù hợp với điểm d, xác nhận; Điều 162 khoản 2 điểm x, y, z;
Điều 163, khoản 2; Điều 174, khoản 3; Điều 11 của phụ lục IV;
d) Các quyết định về
những vấn đề nội dung được đặt ra liên quan đến Điều 162, khoản 2, điểm m và o,
cũng như về việc thông qua các điều sửa đổi đối với phần XI phải được thông qua
bằng consensus (thỏa thuận).
e) Theo điểm d, f và g,
thuật ngữ “consensus” (thỏa thuận) có nghĩa là không có bất kỳ ý kiến phản đối
chính thức nào. Trong 14 ngày tiếp sau một kiến nghị được trình lên Hội đồng,
Chủ tịch phải xem xét xem có ý kiến phản đối chính thức nào không. Nếu Chủ tịch
của Hội đồng nhận thấy rằng có một ý kiến có một ý kiến phản đối, thì trong
vòng ba ngày, Chủ tịch lập và triệu tập một ủy ban hòa giải, gồm nhiều nhất là
chín ủy viên của Hội đồng, dưới sự chủ tọa của bản thân Chủ tịch nhằm loại bỏ
những ý kiến bất đồng và dự thảo một đề nghị có thể được thông qua bằng
“consensus” (thỏa thuận). Ủy ban hòa giải nhanh chóng làm tròn nhiệm vụ của
mình và báo cáo lên Hội đồng trong vòng 14 ngày sau khi thành lập. Nếu ủy ban
không có khả năng đề xuất một đề nghị có thể được thông qua bằng “consensus” (thỏa
thuận) thì phải trình bày trong báo cáo của mình những lý do của ý kiến đối lập
với để nghị;
f) Các quyết định về
những vấn đề không được liệt kê ở trên mà Hội đồng có quyền hạn giải quyết theo
các quy tắc, quy định và thủ tục của đó, nếu không thì theo quy định của khoản
này, được ghi trong các quy tắc, quy định và thủ tục đó, nếu không thì theo quy
định được xác định bởi một quyết định của Hội đồng được thông qua bằng
consensus (thỏa thuận).
g) Trong trường hợp còn
chưa thật rõ một vấn đề có thuộc phạm vi của các điểm a, b, c hay d không, thì
vấn đề được coi như thuộc quy định đòi hỏi, tùy trường hợp, theo quy định đòi
hỏi, tùy từng trường hợp, theo đa số cao nhất hay bằng consensus (thỏa thuận).
9. Hội đồng định ra một thử
tục cho phép một thành viên của Cơ quan quyền lực không có đại diện ở Hội đồng
được tham dự vào một cuộc họp của Hội đồng khi thành viên này có yêu cầu được
tham dự, hoặc khi Hội đồng xét một vấn đề có liên quan đặc biệt đến thành viên
này. Đại diện của thành viên này có thể tham gia vào các cuộc tranh luận nhưng
không được quyền bỏ phiếu.
1. Hội đồng là cơ quan
chấp hành của Cơ quan quyền lực có quyền căn cứ vào Công ước và chính sách
chung do Đại hội đồng xác định, định ra các chính sách riêng mà Cơ quan quyền
lực phải theo đối với mọi vấn đề hay mọi việc thuộc thẩm quyền của mình.
2. Ngoài ra, Hội đồng
còn:
a) Giám sát và tổ chức phối
hợp việc áp dụng phần này đối với tất cả các vấn đề và các việc thuộc thẩm
quyền của Cơ quyền lực và lưu ý Đại hội đồng về những trường hợp không tuân
thủ;
b) Đề nghị lên Đại hội
đồng danh sách các ứng cử viên vào chức vụ Tổng thư ký;
c) Giới thiệu lên Đại hội
đồng các ứng cử viên vào các chức vụ ủy viên Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc
xí nghiệp;
d) Tùy theo điều kiện
thích hợp, và có lưu ý đúng mức đến các đòi hỏi về tiết kiệm và kém hiệu quả,
lập ra các cơ quan phụ trợ xét thấy cần thiết để thi hành các chức năng của mình
theo đúng phần này. Đối với thành phần của các cơ quan này, cần nhấn mạnh đến
sự cần thiết là các ủy viên phải có trình độ và tinh thông trong những lĩnh cực
kỹ thuật mà các cơ quan đó phụ trách, nhưng phải tính đến các nguyên tắc phân
bổ công bằng theo địa lý và đến các lợi ích đặc biệt;
e) Thông qua quy chế nội
bộ của mình, đặc biệt là xác định cách thức chỉ định chủ tịch của Hội đồng;
f) Thay mặt Cơ quan quyền
lực, ký kết các hiệp định với Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác, trong
phạm vi thẩm quyền của mình và với điều kiện được Đại hội đồng phê chuẩn.
g) Xem xét các báo cáo
của xí nghiệp và chuyển các báo cáo đó lên Đại hội đồng có kèm theo các kiến
nghị của mình;
h) Trình Đại hội đồng báo
cáo hàng năm cũng như các báo cáo đặc biệt mà Đại hội đồng đòi hỏi;
i) Chỉ đạo xí nghiệp theo
đúng Điều 170;
j) Chuẩn y các kế hoạch
làm việc theo đúng Điều 6 của Phụ lục III. Hội đồng quyết định về từng kế hoạch
làm việc trong thời hạn 60 ngày sau ngày kế hoạch làm việc được Ủy ban pháp lý và
kỹ thuật trình lên trong một phiên họp Hội đồng theo đúng các thủ tục sau đây:
- Khi Ủy ban đề nghị
chuẩn y một kế hoạch làm việc, thì kế hoạch này xem như được Hội đồng chấp nhận,
nếu không có ủy viên nào của Hội đồng gửi lên cho Chủ tịch, trong thời hạn 14
ngày, một kháng nghị bằng văn bản rõ ràng viện dẫn việc không tuân thủ các điều
kiện ghi ở Điều 6 của Phụ lục III. Nếu một kháng như vậy được đưa ra, thì thủ
tục hòa giải được trù định ở Điều 161, khoản 8, điểm e, được áp dụng. Nếu vào
lúc kết thúc thủ tục đó mà vẫn còn tiếp thủ tục kháng nghị, thì kế hoạch làm
việc coi như được Hội đồng chuẩn y, trừ khi được Hội đồng bác bỏ kế hoạch này
bằng consensus (thỏa thuận), không kể quốc gia hay các quốc gia đưa ra kế làm
việc hay bảo trợ người đưa ra kế hoạch đó;
- Khi Ủy ban kiến nghị
bác bỏ một kế hoạch làm việc hay không đưa ra kiến nghị, Hội đồng có thể chuẩn
y kế hoạch làm việc theo đa số ba phần tư số ủy viên có mặt và tham gia bỏ
phiếu, với điều kiện là đa số này bao gồm đa số các ủy viên tham gia khóa họp;
- Chuẩn y các kế hoạch
làm việc do Xí nghiệp đưa lên theo đúng Điều 12 Phụ lục IV, áp dụng mutatis
mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) các thủ tục nói ở điểm j;
l) Thi hành việc kiểm soát
đối với những hoạt động tiến hành trong vùng theo đúng Điều 153, khoản 4 và các
quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực;
m) Dựa vào kiến nghị của
Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, theo đúng Điều 150, điểm h, định ra các biện pháp cần
thiết và thích hợp để bảo vệ các quốc gia đang phát triển khỏi bị những tác
động kinh tế bất lợi nói trong quy định đó;
n) Dựa vào ý kiến của Ủy
ban kế hoạch hóa kinh tế, làm các kiến nghị gửi lên Đại hội đồng về việc lập
chế độ bù trừ hay định ra các biện pháp giúp đỡ người khác nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế đã được trù định ở Điều 151, khoản 10;
o) i. Kiến nghị lên Đại
hội đồng những quy tắc, quy định và thủ tục về việc phân chia công bằng những
mối lợi về tài chính và những mối lợi kinh tế khác, thu được từ các hoạt động
tiến hành trong Vùng, cũng như về các khoản đóng góp được trù định ở Điều 82,
đặc biệt lưu ý đến các lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát triển và của
các dân tộc chưa giành được độc lập hoàn toàn hay chưa được hưởng một chế độ tự
trị khác;
ii. Thông qua và áp dụng tạm
thời, trong khi chờ đợi Đại hội đồng chuẩn y, các quy tắc, quy định và thủ tục
của Cơ quan quyền lực và mọi điều sửa đổi đối với những văn bản này, có lưu ý
đến những kiến nghị của Ủy ban pháp lý và kỹ thuật hoặc của mọi cơ quan cấp
dưới có liên quan khác. Những quy tắc, quy định và thủ tục này đề cập việc thăm
dò, khảo sát và khai thác trong Vùng, cũng như việc quản lý tài chính và hành
chính nội bộ của quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến việc thăm dò và
khai thác các khối đa kim. Các quy tắc, quy định, thủ tục thăm dò và khai thác
mọi tài nguyên ngoài các khối đa kim được thông qua trong một thời hạn 3 năm kể
từ ngày Cơ quan quyền lực nhận được đơn của một trong các ủy viên của mình về
vấn đề này. Các quy tắc, quy định và thủ tục đó có hiệu lực tạm thời đến khi
được Đại hội đồng chuẩn y hoặc đến khi được Hội đồng sửa đổi dưới ánh sáng các
quan điểm mà Đại hội đồng phát biểu;
p) Quan tâm đến việc thanh
toán tất cả các khoản tiền do Cơ quan quyền lực nợ hay phải trả cho Cơ quan
quyền lực, về các hoạt động được thực hiện theo đúng phần này;
q) Tiến hành lựa chọn
giữa những người yêu cầu cấp giấy phép sản xuất theo Điều 7 của Phụ lục III,
trong những trường hợp được trù định trong điều đó;
r) Đệ trình dự án ngân
sách hàng năm của Cơ quan quyền lực lên Đại hội đồng để được phê chuẩn;
s) Gửi các kiến nghị lên
Đại hội đồng về chính sách phải theo đối với mọi vấn đề hay mọi viện thuộc thẩm
quyền của Cơ quan quyền lực;
t) Gửi các kiến nghị lên Đại
hội đồng về việc đình chỉ thi hành các quyền và đặc quyền gắn liền với tư cách
ủy viên theo Điều 185;
u) Nhân danh Cơ quan quyền
lực giao cho Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển xét xử trong
những trường hợp không tuân thủ;
v) Thông báo cho Đại hội đồng
quyết định của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển đã được
giao cho xét xử theo điểm u, và có những kiến nghị về các biện pháp mà Hội đồng
thấy cần thiết phải thi hành;
w) Trong trường hợp khẩn
cấp thì ra lệnh và tùy theo tình hình, kể cả lệnh đình chỉ hay thay đổi các
hoạt động, để đề phòng mọi thiệt hại nghiêm trọng có thể gây ra cho môi trường
biển vì các hoạt động tiến hành trong Vùng;
x) Không cho các người ký
kết hợp đồng hay xí nghiệp khai thác một số khu vực khi có những lý do nghiêm
túc để cho rằng điều đó sẽ dẫn đến hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi
trường biển;
y) Thành lập một cơ quan
phụ trợ chuyên trách việc dự thảo những quy tắc, thủ tục và quy định tài chính
có liên quan đến:
i. Việc quản lý tài chính
theo đúng các Điều 171 đến 175; và
ii. Các thể thức tài chính
được trù định trong Điều 134 và Điều 17, khoản 1, điểm c, của phụ lục III;
z) Bố trí các bộ máy thích
hợp để điều khiển và giám sát một đoàn thanh tra làm nhiệm vụ theo dõi các hoạt
động tiến hành trong Vùng để xác định xem phầm này, các quy tắc, quy định và
thủ tục của Cơ quan quyền lực và các điều kiện của các hợp đồng được ký kết với
Cơ quan quyền lực có được tuân thủ không.
1. Các cơ quan của Hội
đồng thành lập gồm có:
a) Một Ủy ban kế hoạch
hóa kinh tế;
b) Một Ủy ban pháp lý và
kỹ thuật.
2. Mỗi ủy ban gồm 15 ủy
viên do Hội đồng bầu ra trong số các ứng cử viên do các quốc gia thành viên
giới thiệu. Tuy nhiên, nếu cần thiết, Hội đồng có thể quyết định mở rộng các thành
phần của Ủy ban này hay ủy ban kia, nhưng phải tính đến yêu cầu về tiết kiệm và
về hiệu quả.
3. Các ủy viên của mỗi ủy
ban phải có trình độ chuyên môn cần thiết trong những lĩnh vực thuộc thẩm quyền
của ủy ban. Để bảo đảm cho các ủy ban thực hiện chức năng có hiệu quả, các quốc
gia thành viên cử các ứng cử viên tinh thông nghiệp vụ nhất, có trình độ chuyên
môn cần thiết trong các lĩnh vực tương ứng.
4. Khi lựa chọn, cần phải
tính đến sự cần thiết phải phân bổ các thành viên công bằng theo địa lý và đại
diện được cho các lợi ích đặc biệt.
5. Không một quốc gia
thành viên nào có thể giới thiệu quá một ứng cử viên vào cùng một ủy ban. Không
ai có thể được bầu vào quá một ủy ban.
6. Các ủy viên của ủy ban
được bầu với nhiệm kỳ là 5 năm. Họ có thể được bầu lại một nhiệm kỳ mới.
7. Trong trường hợp một
ủy viên của một ủy ban bị chết, bất lực hay từ chức trước khi hết nhiệm kỳ, thì
Hội đồng bầu một ủy viên của cùng khu vực địa lý hay đại diện cho cùng loại lợi
ích để tiêp tục hoàn thành nhiệm kỳ của ủy viên trước.
8. Các ủy viên của các ủy
ban không được có lợi ích tài chính trong bất kỳ hoạt động nào liên quan đến
việc thăm dò và khai thác ở Vùng. Với các trách nhiệm của họ đối với ủy ban mà
họ là ủy viên, họ không được phép tiết lộ một bí mật công nghiệp nào hay số liệu
nào thuộc sở hữu công nghiệp đã được chuyển giao cho Cơ quan quyền lực theo
Điều 14 của Phụ lục III, cũng không được tiết lộ các tin tức bí mật mà họ biết
được do chức trách của họ ngay cả sau khi họ đã thôi việc cũng vậy.
9. Mỗi ủy ban phải làm
tròn chức năng của mình theo đúng các nguyên tắc và các chỉ thị do Hội đồng
quyết định.
10. Mỗi ủy ban soạn thảo
và trình lên Hội đồng thông qua các quy tắc và quy định cần thiết để ủy ban
hoạt động được tốt.
11. Các thủ tục ra quyết
định của các ủy ban do các quy tắc, quy định và các thủ tục của cơ quan quyền lực
quy định. Nếu có thể được thì những kiến nghị gửi lên Hội đồng phải kèm theo
một bản trình bày tóm tắt những ý kiến khác nhau trong ủy ban.
12. Bình thường, các ủy
ban làm việc ở trụ sở của Cơ quan quyền lực và phải nhóm họp theo sự cần thiết
để hoàn thành chức năng của mình một cách có hiệu quả.
13. Trong việc thi hành
chức năng của mình, nếu có thể được thì mỗi ủy ban tham khảo ý kiến của ủy ban
khác hay mọi cơ quan có thẩm quyền của Liên hợp quốc và của các cơ quan chuyên
môn của Liên hợp quốc hoặc mọi tổ chức quốc tế có thẩm quyền trong lĩnh vực xem
xét.
1. Các ủy viên của ủy ban
kế hoạch hóa kinh tế cần có trình độ nghiệp vụ cần thiết, nhất là về mặt khai
thác mỏ, quản lý các tài nguyên khoáng sản, thương mại quốc tế và về kinh tế
quốc tế. Hội đồng cố gắng bảo đảm cho Ủy ban, qua thành phần của mình, có trình
độ nghiệp vụ cần thiết một cách đồng bộ. Trong số ủy viên của Ủy ban phải có ít
nhất hai công dân của quốc gia đang phát triển mà nền kinh tế phụ thuộc nặng nề
vào việc xuất khẩu các loại khoáng sản trong Vùng.
2. Ủy ban có nhiệm vụ:
a) Theo yêu cầu của Hội đồng,
đề xuất các biện pháp thực hiện các quyết định được thông qua theo đúng Công
ước có liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng;
b) Nghiên cứu các xu
hướng của cung, cầu và giá cả của các khoáng sản có thể lấy từ Vùng, cũng như
các nhân tố có tác động đến các dữ kiện này, có lưu ý đến các lợi ích của các
nước nhập khẩu, cũng như của các nước xuất khẩu, đặc biệt là các quốc gia đang
phát triển trong số các nước đó;
c) Xem xét mọi tình huống
có thể gây ra những ảnh hưởng bất lợi đã đề cập ở Điều 150, điểm h, do quốc gia
thành viên hay các quốc gia thành viên hữu quan đã lưu ý Ủy ban và gửi các kiến
nghị thích hợp lên Hội đồng;
d) Đề xuất với Hội đồng để
đệ trình lên Đại hội đồng, như được trù định trong Điều 151, khoản 10, một chế
độ bù trừ có lợi cho các nước đang phát triển mà các hoạt động tiến hành trong
Vùng đã gây nên những ảnh hưởng bất lợi hoặc là các biện pháp giúp đỡ khác nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế, và gửi lên Hội đồng những
kiến nghị cần thiết để thực hiện, trong những trường hợp cụ thể, chế độ bù trừ
hay các biện pháp giúp đỡ đã được Đại hội đồng chấp nhận.
1. Các ủy viên của Ủy ban
pháp lý và kỹ thuật phải có trình độ nghiệp vụ cần thiết, nhất là về mặt thăm
dò, khai thác và chế biến tài nguyên khoáng sản, về hải dương học và về việc
bảo vệ môi trường biển hoặc về những vấn đề kinh tế hay pháp lý liên quan đến
các hoạt động khai thác quặng ở biển hay trong những lĩnh vực có liên quan khác.
Hội đồng cố gắng bảo đảm cho Ủy ban qua thành phần của mình có trình độ nghiệp
vụ cần thiết một cách đồng bộ.
2. Ủy ban có nhiệm vụ:
a) Theo yêu cầu của Hội
đồng, soạn thảo các kiến nghị lên Hội đồng về việc thi hành các chức năng của
Cơ quan quyền lực;
b) Xem xét các kế hoạch
làm việc chính thức và bằng văn bản có liên quan đến các hoạt động tiến hành
trong Vùng theo đúng Điều 153, khoản 3 và trình lên Hội đồng các kiến nghị
thích hợp. Ủy ban chỉ dựa vào những quy định trong Phụ lục III, để chuẩn bị các
kiến nghị và trình lên Hội đồng một báo cáo đầy đủ về các kiến nghị đó;
c) Theo yêu cầu của Hội
đồng, giám sát các hoạt động tiến hành trong Vùng, nếu có thể được, thì hỏi ý
kiến và hợp tác với mọi thực thể hay cá nhân tiến hành các hoạt động này hay
với quốc gia hay các quốc gia hữu quan, và làm báo cáo gửi lên Hội đồng;
d) Đánh giá những tác
động về sinh thái của các hoạt động đã tiến hành hoặc đang tiến hành trong
Vùng;
e) Làm các kiến nghị gửi
lên Hội đồng về việc bảo vệ môi trường biển, có chú ý đến các ý kiến của các
chuyên gia được thừa nhận;
f) Soạn thảo và đệ trình
lên Hội đồng các quy tắc, quy định và thủ tục nêu ở Điều 162, khoản 2, điểm o,
có tính đến tất cả các yếu tố thích hợp, kể các việc đánh giá những tác động về
sinh thái của các hoạt động tiến hành trong Vùng;
g) Qua từng thời kỳ, xem
xét lại những quy tắc, quy định và thủ tục này và kiến nghị lên Hội đồng những
điều sửa đổi mà mình xét thấy cần thiết hay nên làm;
h) Gửi các kiến nghị lên
Hội đồng liên quan đến việc bố trí một chương trình giám sát bao gồm việc quan
sát, đo đạc, đánh giá và phân tích định kỳ bằng những phương pháp khoa học được
thừa nhận đối với những nguy cơ hay ảnh hưởng của các hoạt động tiến hành trong
Vùng về mặt ô nhiễm môi trường biển, bảo đảm cho các quy định hiện có được
thích hợp và được tôn trọng, và việc phối hợp thực hiện chương trình giám sát,
một khi chương trình này được Hội đồng chuẩn y;
i) Kiến nghị lên Hội đồng
để Hội đồng nhân danh cơ quan quyền lực giao cho Viện giải quyết các tranh chấp
có liên quan đến đáy biển xét xử, đặc biệt lưu ý đến Điều 187, theo đúng phần này
và các phụ lục có liên quan đến phần này;
j) Trình lên Hội đồng các
kiến nghị về các biện pháp thi hành sau khi Viện giải quyết các tranh chấp liên
quan đến đáy biển được giao giải quyết theo điểm i đã ra quyết định;
k) Kiến nghị lên Hội đồng
để trong trường hợp khẩn cấp, Hội đồng ra lệnh, kể cả lệnh đình chỉ hoặc sửa
đổi các hoạt động nếu cần, nhằm phòng ngừa bất kỳ tổn thất nghiêm trọng nào có
thể gây ra cho môi trường biển do các hoạt động tiến hành trong Vùng; Hội đồng ưu
tiên xem xét các kiến nghị này;
l) Kiến nghị lên Hội đồng
không cho những người ký kết hợp đồng hay Xí nghiệp khai thác một số khu vực
khi có những lý do nghiêm túc để cho rằng điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ gây ra tổn
thất nghiêm trọng cho môi trường biển;
m) Gửi các kiến nghị đó
lên Hội đồng liên quan đến việc chỉ đạo và giám sát một đoàn thanh tra có nhiệm
vụ theo dõi các hoạt động tiến hành trong Vùng và có nhiệm vụ xác định xem phần
này, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và các điều khoản,
điều kiện của mọi hợp đồng đã ký kết với Cơ quan quyền lực có được tuân thủ
không;
n) Tính toán sản lượng
tối đa và thay mặt Cơ quan quyền lực cấp giấy phép sản xuất theo Điều 151, từ
khoản 2 đến khoản 7, một khi Hội đồng đã tiến hành sự lựa chọn cần thiết, nếu như
cần phải chọn, trong số những người yêu cầu cấp giấy phép sản xuất theo đúng
Điều 7 của Phụ lục III.
3. Theo yêu cầu của mọi
quốc gia thành viên mọi bên hữu quan khác, các ủy viên của Ủy ban, khi thực
hiện chức trách giám sát và thanh tra của mình phải cho một đại diện của quốc
gia hay của bên hữu quan này tham dự.
1. Ban thư ký của Cơ quan
quyền lực gồm có một Tổng thư ký và số nhân viên theo sự cần thiết của Cơ quan
quyền lực.
2. Tổng thư ký do Đại hội
đồng bầu ra trong số các ứng cử viên do Hội đồng đề nghị với nhiệm kỳ là 4 năm
và có thể được bầu lại.
3. Tổng thư ký là viên
chức cao nhất của Cơ quan quyền lực và hoạt động với tư cách này trong tất cả
các cuộc họp của Đại hội đồng và Hội đồng và của mọi cơ quan phụ trợ. Tổng thư
ký thực hiện mọi chức trách hành chính khác mà cơ quan này giao cho.
4. Tổng thư ký trình lên
Đại hội đồng một báo cáo hàng năm về hoạt động của Cơ quan quyền lực.
1. Nhân viên của Cơ quan quyền
lực bao gồm những người có trình độ nghiệp vụ trong các lĩnh vực khác mà Cơ
quan quyền lực cần để thi hành các chức năng quản lý của mình.
2. Căn cứ cao nhất trong vấn
đề tuyển lựa và xác định các điều kiện sử dụng nhân viên là bảo đảm cho Cơ quan
quyền lực có những nhân viên phục vụ có năng lực làm việc cao nhất, tinh thông
và liêm khiết nhất. Ngoài căn cứ này, phải tính đến tầm quan trọng của việc
tuyển lựa trên cơ sở địa lý càng rộng rãi càng tốt.
3. Nhân viên do Tổng thư ký
bổ nhiệm. Các điều kiện và thể thức bổ nhiệm, trả lương và thải hồi phải phù
hợp với các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
1. Trong khi thực hiện chức
trách của mình, Tổng thư ký và nhân viên không được xin hay nhận chỉ thị của bất
kỳ một chính phủ nào hay một nguồn nào khác ngoài Cơ quan quyền lực. Tổng thư
ký và nhân viên tránh mọi hành vi không phù hợp với tư cách các viên chức quốc
tế và họ chỉ chịu trách nhiệm đối với Cơ quan quyền lực. Mỗi quốc gia thành
viên cam kết tôn trọng tính chất quốc tế thuần túy của các chức trách của Tổng
thư ký và nhân viên của Cơ quan quyền lực và cam kết không tìm cách gây ảnh
hưởng đến họ trong khi họ thi hành nhiệm vụ. Mọi hoạt động thiếu trách nhiệm
của một viên chức được đưa ra trước một tòa án hành chính được chỉ định theo
các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ
quan quyền lực.
2. Tổng thư ký và nhân
viên không được có những lợi lộc tài chính trong một hoạt động nào liên quan
đến việc thăm dò và khai thác tiến hành trong Vùng. Với các trách nhiệm của họ
đối với Cơ quan quyền lực, họ không được tiết lộ một bí mật nào, một số liệu
nào thuộc sở hữu công nghiệp và đã được chuyển giao cho Cơ quan quyền lực theo
Điều 14, Phụ lục III và một thông tin mật nào khác mà họ biết do các chức trách
của họ ngay cả sau khi đã thôi việc cũng vậy.
3. Nếu một viên chức của
Cơ quan quyền lực có những thiếu sót đối với các nghĩa vụ nói ở khoản 2 thì,
theo yêu cầu của một quốc gia thành viên bị thiệt hại sao thiếu sót đó, hay
theo yêu cầu của một tự nhiên nhân hay pháp nhân do một quốc gia thành viên bảo
trợ theo Điều 153, khoản 2, điểm b bị thiệt hại do thiếu sót này, Cơ quan quyền
lực sẽ truy tố viên chức này trước một tòa án được chỉ định theo các quy tắc,
quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực. Bên bị thiệt hại có quyền tham gia
vào việc tố tụng, nếu tòa án kiến nghị, Tổng thư ký phải thải hồi nhân viên đó.
4. Các quy tắc, quy định
và thủ tục của Cơ quan quyền lực trù định các thể thức áp dụng điều này.
1. Đối với các vấn đề
thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực, Tổng thư ký, sau khi được Hội đồng phê
chuản, ký các thỏa thuận để tham khảo ý kiến và hợp tác với các tổ chức quốc tế
và các tổ chức phi chính phủ được Hội đồng kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc
thừa nhận.
2. Bất kỳ tổ chức nào mà
Tổng thư ký đã ký với họ một thỏa thuận theo khoản 1 đều có thể chỉ định các
đại diện tham dự với tư cách là quan sát viên vào các hội nghị của các cơ quan
thuộc Cơ quan quyền lực, theo đúng quy chế nội bộ của các cơ quan này. Các thủ
tục được định ra để cho các tổ chức đó trình bày quan điểm của họ trong những
trường hợp thích hợp.
3. Tổng thư ký có thể
phân phát cho các quốc gia thành viên các báo cáo bằng văn bản của các tổ chức
phi chính phủ nói ở khoản 1 về các vấn đề thuộc thẩm quyền riêng của họ và có
liên quan đến công việc của Cơ quan quyền lực.
1. Xí nghiệp là cơ quan
của Cơ quan quyền lực trực tiếp tiến hành các hoạt động trong Vùng theo Điều
153, khoản 2, điểm a, cũng như các hoạt động vận chuyển, chế biến và buôn bán các
khoáng sản được khai thác trong Vùng.
2. Trong khuôn khổ của Cơ
quan quyền lực là pháp nhân quốc tế, Xí nghiệp có tư cách pháp nhân được trù
định trong Phụ lục IV. Xí nghiệp hoạt động theo đúng Công ước và các quy tắc,
quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, cũng như theo đúng chính sách chung
do Đại hội đồng quyết định, và Xí nghiệp tuân theo các chỉ thị của Hội đồng và
chịu sự kiểm soát của cơ quan này.
3. Xí nghiệp có cơ quan
chính đóng tại trụ sở của Cơ quan quyền lực.
4. Theo đúng Điều 173,
khoản 2 và Điều 11 của Phụ lục IV, Xí nghiệp có những nguồn tài chính cần thiết
để thực hiện các chức năng của mình, và có các kỹ thuật đã được chuyển giao
theo Điều 144 và theo các quy định thích hợp khác của Công ước.
Các nguồn tài chính của
Cơ quan quyền lực gồm có:
a) Các khoản đóng góp của
các thành viên của Cơ quan quyền lực được quy định theo đúng Điều 160, khoản 2,
điểm e;
b) Những thu nhập mà Cơ
quan quyền lực thu được, theo Điều 13 của Phụ lục III, từ các hoạt động tiến
hành trong Vùng;
c) Các khoản tiền do Xí
nghiệp chuyển khoản theo Điều 10 của Phụ lục IV;
d) Vốn đi vay theo Điều
174;
e) Các khoản đóng góp tự
nguyện của các quốc gia thành viên hay của các nguồn khác; và
f) Các khoản nộp vào một
quỹ bù trừ theo đúng Điều 151, khoản 10 mà Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế phải
kiến nghị các nguồn.
Tổng thư ký lập dự án
ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực và trình lên Hội đồng. Hội đồng xem
xét dự án đó và đệ trình lên Đại hội đồng với những kiến nghị của mình để Đại
hội đồng phê chuẩn theo Điều 160, khoản 2, điểm h.
1. Những khoản đóng góp
nói ở Điều 171, điểm a được nộp vào một tài khoản đặc biệt và dùng để trang
trải các khoản cho hành chính của Cơ quan quyền lực cho đến khi Cơ quan quyền
lực có được các khoản thu từ các nguồn khác đủ để trang trải các khoản chi này.
2. Các nguồn tài chính của
Cơ quan quyền lực trước tiên dùng để thanh toán những khoản chi hành chính.
Ngoài những khoản đóng góp nói ở Điều 171, điểm a, quỹ còn lại sau khi thanh
toán các chi phí hành chính có thể dùng, đặc biệt để:
a) Phân chia theo đúng
Điều 140 và Điều 160, khoản 2, điểm g;
b) Cấp cho Xí nghiệp các
nguồn vốn nói ở Điều 170, khoản 4;
c) Đền bù cho các quốc
gia đang phát triển theo đúng Điều 151 khoản 10 và với Điều 160, khoản 2, điểm
l.
1. Cơ quan quyền lực có
quyền vay vốn.
2. Đại hội đồng ấn định giới
hạn của quyền này trong quy chế tài chính được thông qua theo Điều 160, khoản
2, điểm f.
3. Hội đồng thực hiện
quyền vay vốn này.
4. Các quốc gia thành
viên không chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Cơ quan quyền lực.
Mỗi năm các báo cáo sổ sách
và tài khoản của Cơ quan quyền lực, kể cả các bản quyết toán tài chính hàng năm
được một kiểm soát viên độc lập do Đại hội đồng cử ra kiểm tra.
Cơ quan quyền lực là pháp
nhân quốc tế và có quyền về pháp lý cần thiết để thi hành chức năng và đạt tới
các mục đích của mình.
Để có thể thực hiện các chức
năng của mình, Cơ quan quyền lực được hưởng trên lãnh thổ của mỗi quốc gia thành
viên những đặc quyền và quyền miễn trừ được trù định trong tiểu mục này. Những đặc
quyền và quyền miễn trừ liên quan đến Xí nghiệp được trù định ở Điều 13 của Phụ
lục IV.
Cơ quan quyền lực cũng
như tài sản và của cải của mình đều được hưởng quyền miễn trừ về mặt tài phán
và tịch thu tài sản, trừ phạm vi mà Cơ quan quyền lực đã từ bỏ rõ ràng quyền
miễn trừ này trong một trường hợp đặc biệt.
Những của cải và tài sản
của Cơ quan quyền lực, dù chúng nằm ở đâu và người giữ chúng là ai, đều được
miễn khám xét, trưng thu, tịch thu, tước đoạt và mọi hình thức sai áp khác theo
một biện pháp của cơ quan hành pháp hay lập pháp.
Tài sản và của cải của Cơ
quan quyền lực được miễn mọi sự kiểm soát, hạn chế, quy định hay lệnh tạm hoãn
nợ nào.
1. Hồ sơ của Cơ quan
quyền lực dù chúng được cất giữ ở đâu đều bất khả xâm phạm.
2. Các số liệu thuộc sở
hữu công nghiệp, các thông tin thuộc bí mật công nghiệp của Cơ quan quyền lực
và các thông tin tương tự, cũng như các hồ sơ về nhân sự không được để trong các
cơ quan lưu trữ đại chúng.
3. Đối với các thông tin
chính thức, mỗi quốc gia thành viên dành cho Cơ quan đối xử ít nhất cũng thuận
tiện như đối với các tổ chức quốc tế khác.
Đại biểu các quốc gia
thành viên tham dự các cuộc họp của Đại hội đồng, của Hội đồng hoặc của các cơ
quan của Đại hội đồng hay của Hội đồng, cũng như Tổng thư ký và nhân viên của
Cơ quan quyền lực, được hưởng trên lãnh thổ của mỗi quốc gia thành viên:
a) Quyền miễn trừ về tài
phán và tịch thu tài sản đối với các hành động của họ trong khi thi hành các
chức vụ của mình, trừ phạm vi quốc gia mà họ đại diện hoặc Cơ quan quyền lực đã
từ bỏ rõ ràng quyền miễn trừ này trong một trường hợp đặc biệt;
b) Các quyền miễn trừ như
các quyền đã được quốc gia mà trên lãnh thổ quốc gia đó họ có mặt, dành cho các
đại diện, công chức và nhân cấp tương đương của các quốc gia thành viên khác về
các điều kiện nhập cư, các thủ tục đăng ký người nước ngoài và các nghĩa vụ
phục vụ quốc gia, cũng như các điều kiện thuận tiện như thế liên quan đến quy
định về hối đoái và về di chuyển, trừ khi họ là công dân của quốc gia hữu quan.
1. Trong khi thi hành chức
năng của mình, Cơ quan quyền lực cùng với của cải, tài sản và thu nhập của
mình, cũng như những hoạt động và giao dịch được Công ước này cho phép, đều
được miễn mọi thứ thuế trực thu và các tài sản mà Cơ quan quyền lực nhập khẩu
hay xuất khẩu để sử dụng trong công vụ đều được miễn mọi thứ thuế quan. Cơ quan
quyền lực không thể yêu cầu miễn bất cứ khoản tiền phải trả nào cho các dịch vụ
mà họ được hưởng.
2. Đối với những việc mua
của cải hay trả tiền dịch vụ của Cơ quan quyền lực hay nhân danh Cơ quan quyền
lực có một giá trị lớn, cần thiết cho việc thực hiện chức năng của Cơ quan
quyền lực và nếu giá các loại tài sản đó hay giá dịch vụ đó bao gồm cả thuế, lệ
phí hay thuế quan, thì các quốc gia thành viên sẽ cố gắng hết sức thi hành
những biện pháp thích hợp để miễn hay hoàn lại các khoản thuế, lệ phí hay thuế
quan. Các của cải nhập khẩu hay mua theo chế độ miễn trừ được quy định ở điều
này không được bán, chuyển nhượng bằng cách nào khác trên lãnh thổ của quốc gia
thành viên đã cho phép miễn thuế, trừ khi việc đó được tiến hành theo các điều
kiện đã thỏa thuận với quốc gia thành viên này.
3. Các quốc gia thành
viên không được thu một loại thuế trực thu hay gián thu nào đánh vào tiền
lương, tiền thù lao hay vào các khoản tiền khác mà Cơ quan quyền lực trả cho
Tổng thư ký và cho các nhân viên của mình, cũng như cho các chuyên gia thực
hiện những nhiệm vụ do Cơ quan quyền lực giao, trừ khi họ là công dân của các
nước đó.
Trong việc thanh toán các
khoản đóng góp của mình cho Cơ quan quyền lực, một quốc gia thành viên nộp
chậm, thì không được tham gia vào các cuộc bỏ phiếu, nếu tổng số tiền còn thiếu
bằng hoặc cao hơn tổng số tiền phải đóng góp cho 2 năm tròn đã qua. Đại hội
đồng có thể cho phép thành viên này tham gia bỏ phiếu, nếu Đại hội đồng xét
thấy việc thiếu sót này là do những hoàn cảnh nằm ngoài ý muốn của họ.
1. Một quốc gia vi phạm
phần này một cách nghiêm trọng và kéo dài thì có thể bị Đại hội đồng, theo kiến
nghị của Hội đồng đình chỉ việc hưởng các quyền và đặc quyền vốn có của thành
viên.
2. Không một quyết định
nào có thể được thi hành theo khoản 1, chừng nào mà Viện giải quyết các tranh
chấp liên quan đến đáy biển không xác nhận rằng quốc gia thành viên hữu quan đã
vi phạm phần này một cách nghiêm trọng và kéo dài.
Mục này, phần XV và Phụ
lục VI điều chỉnh quy chế của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy
biển và các cách thức mà Viện thi hành thẩm quyền của mình,
Theo phần này và các phụ
lục có liên quan, Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển có thẩm
quyền xét xử những loại tranh chấp về những hoạt động tiến hành trong Vùng sau
đây:
a) Các vụ tranh chấp giữa
các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng phần này và
các phụ lục có liên quan;
b) Các vụ tranh chấp giữa
một quốc gia thành viên và Cơ quan quyền lực liên quan đến:
i. Các hành động hay thiếu
sót của Cơ quan quyền lực hay của một quốc gia thành viên được viện dẫn là đã
vi phạm các quy định của phần này hay các phụ lục có liên quan hay các quy tắc
quy định hay thủ tục đã được Cơ quan quyền lực thông qua theo đúng các quy định
này; hoặc
ii. Các hành động của Cơ
quan quyền lực được viện dẫn là đã vượt quá thẩm quyền của mình hay đã lạm
quyền;
c) Các vụ tranh chấp giữa
các bên ký kết một hợp đồng, dù các bên này là các quốc gia thành viên, là Cơ
quan quyền lực hay Xí nghiệp, hay các xí nghiệp của Nhà nước hoặc các tự nhiên
nhân hay pháp nhân đã nêu ở Điều 153, khoản 2, điểm b, liên quan đến:
i. Việc giải thích hay thi
hành một hợp đồng hay một kế hoạch làm việc; hoặc
ii. Các hành động hay
thiếu sót của một bên ký kết hợp đồng liên quan đến các hoạt động tiến hành
trong Vùng và làm ảnh hưởng đến bên khác hay trực tiếp gây tổn hại đến các lợi
ích chính đáng của các bên khác đó;
d) Các vụ tranh chấp giữa
Cơ quan quyền lực và một người yêu cầu được một quốc gia bảo trợ theo đúng Điều
153, khoản 2, điểm b và đã thoản mãn các điều kiện được quy định ở Điều 4, khoản
6 và Điều 13, khoản 2 của Phụ lục III, có liên quan đến việc từ chối ký kết hợp
đồng hay đến một vấn đề pháp lý nảy sinh trong khi thương lượng về hợp đồng;
e) Các vụ tranh chấp giữa
Cơ quan quyền lực và một quốc gia thành viên, một xí nghiệp Nhà nước hoặc một
tự nhiên nhân hay pháp nhân do một quốc gia thành viên bảo trợ theo đúng Điều
153, khoản 2, điểm b, khi thấy rằng, theo Điều 22 của Phụ lục III, việc tranh
chấp này có đụng đến trách nhiệm của Cơ quan quyền lực;
f) Bất kỳ tranh chấp nào
khác mà Công ước đã trù định rõ ràng Viện có thẩm quyền giải quyết.
1. Các vụ tranh chấp giữa
các quốc gia thành viên đề cập ở Điều 187, điểm a có thể được đưa ra trước:
a) Một viện đặc biệt của
Tòa án quốc tế về luật biển được lập ra theo đúng các Điều 15 và 17 của Phụ lục
VI, theo yêu cầu của các bên tranh chấp; hay
b) Một viện ad – hoc (đặc
biệt) của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển được lập ra
theo đúng Điều 36 của Phụ lục VI, theo yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào.
2. a) Các vụ tranh chấp
liên quan đến việc giải thích hay áp dụng một hợp đồng nêu ở Điều 187, điểm c
điểm nhỏ i theo yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào, được đưa ra trước trọng
tài thương mại bắt buộc, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác, Tòa trọng
tài thương mại xét xử một vụ tranh chấp như thế không có thẩm quyền phán xét về
một điểm giải thích Công ước. Nếu vụ tranh chấp bao hàm một điểm giải thích
Phần XI và các phụ lục có liên quan, về các hoạt động tiến hành trong Vùng thì
điểm này phải được chuyển lên cho Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến
đáy biển quyết định.
b) Lúc khởi tố hay trong
quá trình tiến hành một thủ tục trọng tài như vậy, nếu như Tòa trọng tài thương
mại, theo yêu cầu của một trong những bên tranh chấp hoặc tự ý mình, thấy rằng
quyết định của mình phụ thuộc vào một quyết định của Viện giải quyết các tranh
chấp liên quan đến đáy biển, thì Tòa trọng tài này phải chuyển đổi quan điểm
này lên cho Viện nói trên quyết định. Sau đó, Tòa trọng tài sẽ ra phán quyết
theo đúng quyết định của Viện;
c) Nếu trong hợp đồng
thiếu một điều quy định về thủ tục trọng tài có thể áp dụng cho vụ tranh chấp,
thì công việc trọng tài được thực hiện theo quy chế trọng tài của CNUDCI hay
theo bất kỳ quy chế trọng tài nào khác có thể được trù định trong các quy tắc,
quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
Viện giải quyết các tranh
chấp liên quan đến đáy biển không có thẩm quyền phán xét đối với việc Cơ quan quyền
lực, theo đúng phần này, thi hành các quyền tùy ý quyết định của mình; trong
bất kỳ trường hợp nào, Viện này cũng không thể thay thế cho Cơ quan quyền lực trong
việc thi hành các quyền tùy ý quyết định nói trên. Không phương hại đến Điều
191, khi thi hành thẩm quyền được thừa nhận theo Điều 187, Viện giải quyết các
tranh chấp liên quan đến đáy biển không được phán xét đối với các vấn đề xem
một quy tắc, quy định hay một thủ tục của Cơ quan quyền lực có phù hợp với Công
ước hay không và không thể tuyên bố quy tắc, quy định hay thủ tục này là vô
hiệu. Thẩm quyền của Viện chỉ giới hạn trong việc xác định xem việc áp dụng quy
tắc, quy định hay thủ tục của Cơ quan quyền lực trong những trường hợp riêng
biệt có ngược lại với những nghĩa vụ theo hợp đồng của các bên tranh chấp hay
với các nghĩa vụ của họ theo Công ước không và xét xử những trường hợp kháng
cáo về việc không đủ thẩm quyền hay lạm quyền, cũng như những yêu cầu bồi thường
thiệt hại và những yêu cầu đền bù khác do một trong các bên kiện bên kia vì
thiếu sót trong việc thi hành nghĩa vụ theo hợp đồng hay nghĩa vụ của họ theo
Công ước.
1. Quốc gia thành viên
bảo trợ cho một tự nhiên nhân hay pháp nhân tham gia vào một vụ tranh chấp đã
nêu ở Điều 187 được nhận thông báo về vụ tranh chấp và có quyền tham gia vào
trình tự tố tụng bằng cách trình bày những nhận xét bằng văn bản hay bằng lời.
2. Khi một vụ kiện do một
tự nhiên nhân hay pháp nhân được một quốc gia thành viên khác bảo trợ, đệ đơn
kiện một quốc gia thành viên về một vụ tranh chấp đã nêu ở Điều 187, điểm c,
thì quốc gia bị đơn có thể yêu cầu quốc gia bảo trợ ra trước tòa nhân danh bên
nguyên. Nếu không ra trước tòa được, thì quốc gia bị đơn có thể ủy quyền cho
một pháp nhân mang quốc tịch của mình thay mặt.
Viện giải quyết các tranh
chấp liên quan đến đáy biển đưa ra các ý kiến tư vấn theo yêu cầu của Đại hội
đồng, hay Hội đồng về những vấn đề pháp lý được đặt ra trong những thời hạn
ngắn nhất.
Các quốc gia có nghĩa vụ
bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
Các quốc gia có quyền thuộc
chủ quyền khai thác các tài nguyên thiên nhiên của mình theo chính sách về môi
trường của mình và theo đúng nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển của
mình.
1. Các quốc gia, tùy theo
tình hình, thi hành riêng rẽ hay phối hợp với nhau, tất cả các biện pháp phù
hợp với Công ước, cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường
biển, sử dụng các phương tiện thích hợp nhất mà mình có, và cố gắng điều hòa
các chính sách của mình về mặt này.
2. Các quốc gia thi thành
mọi biện pháp cần thiết để cho các hoạt động thuộc quyền tài phán hay quyền
kiểm soát của mình không gây tác hại do ô nhiễm cho các quốc gia khác và cho
môi trường của họ và để cho nạn ô nhiễm nảy sinh từ những tai nạn hay từ các hoạt
động thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm soát của mình không lan ra ngoài các
khu vực mà mình thi hành các quyền thuộc chủ quyền theo đúng Công ước.
3. Các biện pháp được sử
dụng để thi hành phần này cần phải nhằm vào tất cả các nguồn gây ra ô nhiễm môi
trường biển. Nhất là, chúng bao gồm những biện pháp nhằm hạn chế đến mức cao
nhất:
a. Việc thải bỏ từ khí quyển
xuống hay đi qua khí quyển do nhận chìm các chất độc có hại và độc hại, đặc
biệt là các chất không bị phân hủy từ các nguồn ở đất liền;
b. Ô nhiễm do các tàu thuyền
gây ra, đặc biệt là những biện pháp nhằm đề phòng các sự cố và đối phó với các
trường hợp khẩn cấp, nhằm đảm bảo an toàn cho các hoạt động trên biển, ngăn ngừa
những hành động thải bỏ, dù cố ý hay không, và quy định về cách thiết kế, cấu
trúc, trang bị và việc khai thác các tàu thuyền;
c. Ô nhiễm bắt nguồn từ
các thiết bị hay phương tiện được sử dụng để thăm dò hay khai thác các tài
nguyên thiên nhiên của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển này, đặc biệt là các
biện pháp nhằm phòng ngừa các sự cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp, đảm
bảo an toàn cho các hoạt động trên biển, và quy định về cách thiết kế, cấu
trúc, trang bị và việc khai thác các thiết bị hay phương tiện này,và thành phần
nhân viên được sử dụng ở đó;
d. Ô nhiễm xuất phát từ
các thiết bị hay phương tiện khác hoạt động trong môi trường biển, đặt biệt là những
biện pháp nhằm phòng ngừa những sự cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp,
bảo đảm an toàn cho các hoạt động trên biển, và quy định về cách thiết kế, cấu
trúc, trang bị và khai thác các thiết bị hay phương tiện này,và thành phần nhân
viên được sử dụng ở đó.
4. Khi thi hành các biện
pháp phòng ngừa, hạn chế , hay chế ngự ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia
tránh chấp cứ sự can thiệp vô lý nào vào các hoạt động của các quốc gia khác
đang thi hành các quyền hay đang thực hiện nghĩa vụ của họ theo đúng Công ước.
5. Các biện pháp được thi
hành theo đúng phần này bao gồm các biện pháp cần thiết để bảo vệ và gìn giữ
các hệ thống sinh thái hiếm hoi hay mỏng manh cũng như điều kiện cư trú của các
loài và các sinh vật biển khác đang thoái hóa, có nguy cơ hay đang bị hủy diệt.
Khi thi hành các biện
pháp để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia
phải làm sao để không đùn đẩy, trực tiếp hay gián tiếp, thiệt hại hay các nguy
cơ từ vùng này sang vùng khác và không được thay thế một kiểu ô nhiễm này bằng
một kiểu ô nhiễm khác.
1. Các quốc gia thi hành
mọi biện pháp cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường
biển từ việc sử dụng các kỹ thuật trong khuôn khổ quyền tài phán hay dưới sự
kiểm soát của mình, hoặc do du nhập cố ý hay vô tình vào một bộ phận môi trường
biển các ngoại lai hoặc mới có thể gây ra ở đó các thay đổi đáng kể và có hại.
2. Điều này không ảnh
hưởng đến việc áp dụng các quy định của Công ước có liên quan đến các biện pháp
nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển.
Các quốc gia hợp tác trên
phạm vi thế giới và nếu có thể thì trên phạm vi khu vực, trực tiếp hay qua trung
gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, trong việc hình thành và soạn thảo các
quy tắc và các quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị mang
tính chất quốc tế phù hợp với Công ước, để bảo vệ và gìn giữ môi trường biển,
có tính đến các đặc điểm có tính chất khu vực.
Quốc gia nào biết được
trường biệt môi trường biển đang có nguy cơ sắp phải chịu những thiệt hại hay
đã chịu những thiệt hại do ô nhiễm thì phải lập tức thông báo cho các quốc gia
khác mà mình xét thấy có nguy cơ phải chịu những tổn thất này cũng như cho các
tổ chức quốc tế có thẩm quyền.
Trong các trường hợp đã
nêu ở Điều 198, các quốc gia ở trong khu vực bị ảnh hưởng, theo khả năng của
mình, và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hợp tác với nhau đến mức cao nhất
nhằm loại trừ ảnh hưởng của ô nhiễm và nhằm ngăn ngừa và giảm đến mức tối thiểu
những thiệt hại. Nhằm mục đích này, các quốc gia cần cùng nhau soạn thảo và xúc
tiến các kế hoạch khẩn cấp để đối phó với những tai nạn gây ra ô nhiễm môi
trường biển.
Trực tiếp hoặc qua trung
gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các quốc gia hợp tác với nhau nhằm
đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học và
khuyến khích việc trao đổi các thông tin và các dữ kiện về ô nhiễm môi trường
biển. Các quốc gia cố gắng tham gia tích cực vào các chương trình khu vực và
thế giới nhằm thu được những kiến thức cần thiết để xác định tính chất và phạm
vi ô nhiễm, đối tượng có nguy cơ bị ô nhiễm, những con đường mà nạn ô nhiễm đi
qua, những nguy hiểm mà nạn ô nhiễm chứa đựng và những phương thức khắc phục có
thể có.
Lưu ý đến các thông tin
và các dữ kiện thu được trong khi áp dụng Điều 200, trực tiếp hoặc qua trung
gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các quốc gia hợp tác với nhau nhằm
lập ra các tiêu chuẩn khoa học thích hợp để xây dựng và soạn thảo các quy tắc
và quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị nhằm ngăn ngừa, hạn
chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển.
Trực tiếp hoặc qua trung
gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các quốc gia cần:
a. Đẩy mạnh các chương
trình giúp đỡ cho các quốc gia đang phát triển trong các lĩnh vực khoa học,
giáo dục, kỹ thuật và trong các lĩnh vực khác nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường
biển và nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm biển. Sự giúp đỡ này đặc
biệt gồm có:
i. Đạo tạo nhân viên khoa
học và kỹ thuật của các quốc gia này;
ii. Tạo điều kiện dễ dàng
cho việc tham gia của các quốc gia này vào các chương trình quốc tế thích hợp;
iii. Cung cấp cho các quốc
gia này cơ sở vật chất và những điều kiện thuận lợi cần thiết;
iv. Tăng cường khả năng
tự sản xuất cơ sở vật chất nói trên cho các quốc gia đó;
v. Giúp đỡ các ý kiến tư
vấn và phát triển các phương tiện vật chất liên quan đến các chương trình nghiên
cứu, các chương trình giám sát liên tục, chương trình giáo dục và các chương trình
khác;
b. Thực hiện sự giúp đỡ
thích hợp, đặc biệt là cho các quốc gia đang phát triển, để giúp các quốc gia
này giảm bớt đến mức tối thiểu những ảnh hưởng của các tai biến lớn có nguy cơ gây
ra một nạn ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường biển;
c. Thực hiện sự giúp đỡ thích
hợp, đặc biệt là cho các quốc gia đang phát triển, để xây dựng các đánh giá về
sinh thái học.
Để ngăn ngừa, hạn chế và
chế ngự ô nhiễm môi trường biển hoặc để hạn chế đến mức tối thiểu các ảnh hưởng
của nó, các tổ chức quốc tế dành sự đối xử ưu tiên cho các quốc gia đang phát
triển về:
a. Việc trợ cấp vốn và
các phương tiện giúp đỡ kỹ thuật thích hợp; và
b. Việc sử dụng các cơ sở
chuyên môn của mình.
1. Các quốc gia cần cố
gắng hết sức mình và phù hợp với các quyền của các quốc gia khác, trực tiếp
hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, để quan sát, đo đạc,
đánh giá và phân tích, bằng các phương pháp khoa học được thừa nhận, các nguy
cơ ô nhiễm môi trường biển hay những ảnh hưởng của vụ ô nhiễm này.
2. Đặc biệt, các quốc gia
phải thường xuyên giám sát những tác động của mọi hoạt động mà họ cho phép hay
họ tiến hành để xác định xem các hoạt động này có nguy cơ gây ra ô nhiễm môi
trường biển hay không.
Các quốc gia công bố các
báo cáo về kết quả thu được trong khi áp dụng Điều 204 hay, theo khoảng thời
gian thích hợp, cung cấp các báo cáo như vậy cho các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền và các tổ chức quốc tế này cần phải để cho mọi quốc gia khác sử dụng các
báo cáo này.
Khi các quốc gia có những
lý do xác đáng để cho rằng các hoạt động đã dự tính thuộc quyền tài phán hay
quyền kiểm soát của mình có quy cơ gây ra một vụ ô nhiễm nghiêm trong hay làm
thay đổi đáng kể và có hại đối với môi trường biển, thì trong chừng mực có thể,
các quốc gia này cần đánh giá các tác động tiềm tàng cùa các hoạt động này đối
với môi trường đó và cần báo cáo lại những kết quả của những đánh giá này theo
cách đã được quy định ở Điều 205.
1. Các quốc gia thông qua
các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường có
nguồn gốc từ đất, kể cà các ô nhiễm xuất phát từ các dòng sông, ngòi, cửa sông,
ống dẫn và các thiết bị thải đổ, có lưu ý đến các quy tắc và quy phạm cũng như
các tập quán và thủ tục được kiến nghị và chấp nhận trên phạm vi quốc tế.
2. Các quốc gia thi hành
mọi biện pháp có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm
này.
3. Các quốc gia có cố
gắng điều hòa các chính sách của mình về mặt này ở mức độ khu vực thích hợp.
4. Đặc biệt khi hành động
qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại
giao, các quốc gia cố gắng thông qua các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán
và thủ tục được kiến nghị trên phạm vi thế giới và khu vực để ngăn ngừa, hạn
chế và chế ngự nạn ô nhiễm bắt nguồn từ đất đối với môi trường biển, có tính
đến các đặc điểm khu vực, đến khả năng kinh tế của các quốc gia đang phát triển
và các đòi hỏi về phát triển kinh tế của các quốc gia này. Các quy tắc và quy
phạm cũng như các những tập quán và thủ tục được kiến nghị này tùy theo sự cần
thiết mà qua từng thời kỳ, được xem xét lại.
5. Các luật, quy chế và
các biện pháp cũng như các quy tắc, quy phạm và các tập quán, thủ tục được kiến
nghị đã nêu ở khoản 1, 2 và 4, bao gồm những biện pháp nhằm hạn chế đến hết mức
việc trút vào môi trường biển các chất độc, có hại và độc hại, đặc biệt là các
chất không thể phân hủy được.
Các quốc gia ven biển
thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm đối với
môi trường biển trực tiếp hay gián tiếp do các hoạt động liên quan đến đáy biển
thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra, hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, thiết
bị và công trình thuộc quyền tài phán của mình theo các Điều 60 và 80.
Các quốc gia thi hành mọi
biện pháp khác có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự sự ô nhiễm này.
Các luật, quy định và
biện pháp này không được kém hiệu quả hơn các quy tắc và quy phạm quốc tế hay
các tập quán và thủ tục đã được kiến nghị có tính chất quốc tế.
Các quốc gia cố gắng điều
hòa các chính sách của mình về mặt này ở mức độ khu vực thích hợp.
Đặc biệt khi hành động
qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại
giao, các quốc gia thông qua các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ
tục được kiến nghị, trên phạm vi thế giới và khu vực, để ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự nạn ô nhiễm môi trường biển nói ở khoản 1. Các quy tắc và quy phạm cũng như
tập quán và thủ tục được kiến nghị này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời
kỳ được xem xét lại.
1. Các quy tắc, quy định
và thủ tục quốc tế được thông qua theo đính Phần XI để ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường biển do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra. Các
quy tắc, quy định và thủ tục này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ
được xem xét lại.
2. Trong điều kiện tuân
theo các quy định thích hợp của mục này, các quốc gia thông qua các luật và quy
định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển này sinh từ các
hoạt động tiến hành trong Vùng của các tàu thuyền hay xuất phát từ các thiết bị,
công trình hay các phương tiện khác, tùy theo trường hợp, treo cờ của các quốc
gia đó, đăng ký ở trên lãnh thổ hay thuộc quyền của họ. Các luật và quy định này
không được kém hiệu lực hơn các quy tắc,quy định và thủ tục quốc tế nói ở khoản
1.
Các quốc gia thông qua
các luật và quy định để phòng ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển
do sự nhận chìm.
Các quốc gia thi hành tất
cả các biện pháp khác có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm
này.
Các luật, quy định và biện
pháp phải bảo đảm rằng không một sự nhận chìm nào có thể được tiến hành mà
không được phép của các nhà đương cục có thẩm quyền của các quốc gia.
Đặc biệt khi hành động qua
trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại
giao; các quốc gia cố gắng thông qua trên phạm vi thế giới và khu vực các quy
tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị để ngăn ngừa, hạn chế
và chế ngự ô nhiễm này. Các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục
được kiến nghị này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại.
Việc nhận chìm ở trong
lãnh hải và trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa không thể
được tiến hành nếu không được sự đồng ý rõ ràng trước quốc gia ven biển; quốc
gia ven biển có quyền cho phép, quy định và kiểm soát sự nhận chìm này, sau khi
đã xem xét đúng mức vấn đề với các quốc gia khác mà do những hoàn cảnh địa lý
nên việc nhận chìm này có thể có những tác hại đối với họ.
Các luật và quy định cũng
như các biện pháp quốc gia không được kém hiệu lực hơn các quy tắc và quy phạm có
tính chất thế giới để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này.
Hành động qua trung gian
của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung, các
quốc gia thông qua các quy tắc và quy phạm quốc tế nhằm ngăn ngừa, hạn chế và
chế ngự ô nhiễm môi trường biển do các tàu thuyền gây ra và quan tâm tạo điều
kiện dễ dàng cho việc định ra, cũng theo cách nói trên, nếu cần, các cách bố trí
đường giao thông cho tàu thuyền nhằm hạn chế đến mức tối thiểu nguy cơ xảy ra tai
nạn có thể làm cho môi trường biển kể cả vùng duyên hải bị ô nhiễm, và do đó mà
đụng chạm đến những lợi ích có liên quan của các quốc gia ven biển. Các quy tắc
và quy phạm này, cũng theo cách như thế, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời
kỳ được xem xét lại.
Các quốc gia thông qua
các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển
do tàu thuyền mà mình cho mang cờ hay cho đăng ký gây ra. Các luật và quy định
này không được kém hiệu quả hơn các quy tắc và quy phạm quốc tế được chấp nhận
chung và được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua
một hội nghị ngoại giao chung.
Nhằm mục đích ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia khi đặt ra các điều
kiện đặt biệt cho các tàu thuyền nước ngoài đi vào các cảng hay nội thủy của
mình hoặc công trình cảng cuối cùng ở ngoài khơi, cần phải công bố đúng thủ tục
về các điều kiện này và phải thông báo cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền.
Để điều hòa chính sách về mặt này, khi hai hay nhiều quốc gia ven biển đặt ra
các điều kiện như vậy dưới một hình thức giống nhau, cần ghi rõ trong thông báo
các quốc gia nào tham gia vào các thỏa thuận như vậy. Mọi quốc gia đòi hỏi
thuyền trưởng của một chiếc tàu mà mình cho mang cờ hay đăng ký, khi tàu có mặt
ở trong lãnh hải của một quốc gia tham gia vào những thỏa thuận chung này, phải
cung cấp, theo yêu cầu của quốc gia này, những thông tin chỉ rõ liệu chiếc tàu
này có hướng về một quốc gia thuộc cùng khu vực tham gia vào các thỏa thuận này
không và, nếu đúng, cần xác định xem chiếc tàu này có đáp ứng đầy đủ các điều
kiện do quốc gia này đặt ra liên quan đến việc đi vào trong các cảng của mình
không. Điều này được áp dụng không phương hại đến việc tiếp tục thực hiện quyền
đi qua không gây hại của một chiếc tàu hay đến việc áp dụng Điều 25, khoản 2.
Trong việc thi hành chủ
quyền đối với lãnh hải của mình, các quốc gia ven biển có thể thông qua các
luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do
tàu thuyền nước ngoài gây ra, kể cả các tàu thuyền đang thực hiện quyền đi qua
không gây hại. Các luật và quy định này, theo đúng với Mục 3 của phần II, không
được cản trở việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài.
Nhằm thực hiện việc áp
dụng đã nói ở mục 6, các quốc gia ven biển có thể thông qua các luật và quy
định nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do tàu thuyền gây ra trong vùng
đặc quyền về kinh tế của mình; các luật và quy định đó phải phù hợp và đem lại
hiệu lực cho các quy tắc và quy định quốc tế được chấp nhận chung và được xây
dụng qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị
ngoại giao chung.
a. Khi các quy tắc và quy
phạm quốc tế nói ở khoản 1 không cho phép đáp ứng một cách thích đáng với những
tình huống đặc biệt và nếu một quốc gia ven biển có lý do chính đáng để cho
rằng một khu vực đặc biệt và được xác định rõ ràng trong vùng đặc quyền về kinh
tế của mình, đòi hỏi phải thông qua các biện pháp bắt buộc đặc biệt để ngăn
ngừa ô nhiễm do tàu thuyền gây ra, vì những lý do kỹ thuật được thừa nhận do
những đặc điểm hải dương học và sinh thái học của khu vực đó cũng như do việc sử
dụng hay việc bảo vệ các tài nguyên của khu vực đó và do đặc điểm riêng của luồng
giao thông, thì quốc gia này, sau khi thông qua trung gian của tổ chức quốc tế
có thẩm quyền, đã tham khảo ý kiến thích đáng với mọi quốc gia hữu quan, có thể
gửi lên tổ chức này một thông báo liên quan đến khu vực xem xét bằng cách đưa ra
những chứng minh khoa học và kỹ thuật, cũng như những chỉ dẫn về cá thiết bị
thu nhận cần thiết để chứng minh. Trong thời hạn 12 tháng sau khi nhận được
thông báo, tổ chức quyết định xem tình hình trong khu nvực được xem xét có đáp ứng
các điều kiện kể trên không. Nếu tổ chức quyết định đúng là như vậy, thì quốc
gia ven biển có thể thông qua cho khu vực này các luật và quy định nhằm ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra đem lại hiệu lực cho
các quy tắc và quy phạm hay tập quán về hàng hải quốc tế mà tổ chức đã đưa ra
áp dụng cho những khu vực đặc biệt.Các luật và quy định này chỉ được áp dụng
đối với các tàu thuyền nước ngoài sau một thời hạn là 15 tháng kể từ ngày thông
báo cho tổ chức;
Quốc gia ven biển công bố
các giới hạn của các khu vực đặc biệt và được xác định rõ ràng này;
Khi làm thông báo kể
trên, quốc gia ven biển cần đồng thời nói rõ cho tổ chức rằng họ có ý định
thông qua, cho khu vực mà họ đề cập, những luật và quy định bổ sung nhằm ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường do tàu thuyền gây ra hay không. Các
luật và quy dịnh bổ sung này có thể đề cập việc thải bỏ hay những tập quán hàng
hải, nhưng không bắt buộc các tàu thuyền nước ngoài phải tôn trọng các tiêu
chuẩn khác về mặt thiết kế, cấu trúc và trang bị, ngoài các quy tắc và quy phạm
quốc tế đẵ được chấp nhận chung; các luật và quy định bổ sung này có thế áp
dụng cho tàu thuyền nước ngoài, sau 15 tháng kể từ ngày thông báo cho tổ chức
này, với điều kiện là tổ chức này, trong một thời hạn là 12 tháng, kể từ ngày
được thông báo, đã chuẩn y các luật và quy định bổ sung nói trên.
Các quy tắc và quy phạm
quốc tế nêu ở điều này còn cần trù định nghĩa vụ phải thông báo ngay lập tức
cho các quốc gia ven biển mà vùng duyên hải hay các lợi ích liên quan của họ có
nguy cơ bị những tai nạn trên biển tác động đến, nhất là những tai nạn dẫn đến
hay có nguy cơ dẫn đến những việc thải bỏ.
Để ngăn ngừa, hạn chế và
chế ngự ô nhiễm môi trường biển có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí
quyển, các quốc gia thông qua các luật và quy định áp dụng ở vùng trời thuộc
chủ quyền của mình và áp dụng cho các tàu thuyền mang cờ của mình hay cho các
tàu thuyền hoặc các phương tiện bay mà mình cho đăng ký, có tính đến các quy tắc
quy phạm, cũng như những tập quán và thủ tục được kiến nghị, và đã được chấp
nhận trên phạm vi quốc tế vá có tính đến an toàn hàng không.
Các quốc gia thi hành các
biện pháp khác có thể cấn thiết để ngăn giữ, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này.
Đặc biệt khi hành động
qua trung gian cảu các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại
giao, các quốc gia cố gắng thông qua các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập
quán và thủ tục được kiến nghị trên phạm vi thế giới và khu vực để ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm này.
Các quốc gia đảm bảo việc
áp dụng các luật và quy định và thi hành theo đúng Điều 207; Các quốc gia thông
qua luật và quy định và thi hành các biện pháp cần thiết khác để đem lại hiệu
lực cho các quy tắc và quy phạm quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị
ngoại giao nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển bắt nguồn
từ đất.
Các quốc gia bảo đảm việc
áp dụng các luật và quy định đã được thông qua theo đúng Điều 208; họ thông qua
các luật và các quy định và thi hành các biện pháp cấn thiết khác để đem lại
hiệu lực cho các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua
trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại
giao, để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường do các hoạt động liên
quan đến đáy biển và thuộc quyền tài phán của mình, trực tiếp hay gián tiếp gây
ra, hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình được đặt dưới
quyền tài phán của mình theo các Điều 60 và 80.
Việc áp dụng quy tắc, quy
định và thủ tục quốc tế được xây dựng theo đúng Phần XI để ngăn ngừa, hạn chế
và chế ngự ô nhiễm môi trường biển gây ra bởi các hoạt động tiến hành trong
Vùng do phần này điều chỉnh.
Các luật và quy định được
thông qua theo đúng Công ước và các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng,
được xây dựng qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một
hội nghị ngoại giao nhằm ngăn ngừa,hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển
bởi việc nhận chìm do các đối tượng sau đây thi hành:
Quốc gia ven biển, đối
với việc nhận chìm nằm trong giới hạn của lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh
tế hay trên thềm lục địa của mình;
Quốc gia mà tàu mang cờ,
đối với các tàu thuyền mang cờ của mình hay các tàu hay phương tiện bay mà mình
cho đăng ký;
Bất kỳ quốc gia nào, đối với
việc đưa ra chất cặn bã hay các chất khác lên lãnh thổ của mình hay lên các
công trình cảng cuối cùng ra khơi.
Theo điều này, không quốc
gia nào được khởi tố, khi vụ kiện đã được một quốc gia khác khởi tố cũng theo
đúng điều này.
Các quốc gia quan tâm đến
việc tàu thuyền mang cờ của mình hay được mình cho đăng ký tôn trọng các quy
tắc và quay phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của tổ
chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung, cũng như các
luật và quy định mà các quốc gia này đã thông qua theo đúng Công ước để ngăn
ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền gây ra và họ
thông qua các quy luật và quy định, và thi hành các biện pháp cần thiết để đem
lại hiệu lực cho các quy luật và quy định đó. Quốc gia mà tàu mang cờ phải quan
tâm đến việc các quy tắc, quy phạm, luật và quy định này được áp dụng một cách
có hiệu quả, bất kể việc vi phạm xảy ra ở đâu.
Đặc biệt, các quốc gia thi
hành các biện pháp thích hợp để cấm các tàu thuyền mang cờ của nước mình hay
được mình cho đăng ký chuẩn bị nhổ neo, chừng nào chúng không tuân theo đúng các
quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở khoản 1, kể các quy định liên quan đến cách
thiết kế, cấu trúc, và trang bị của tàu thuyền.
Các quốc gia quan tâm đến
việc các tàu thuyền mang cờ của nước mình hay được mình cho đăng ký phải có đủ
các chứng từ cấn thiết và được cấp theo các quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở
khoản 1. Các quốc gia quan tâm đến việc các tàu thuyền mang cờ nước mình phải được
kiểm tra định kỳ xác minh xem lời ghi chú ở trên các chứng từ này có phù hợp
với tình trạng thực tế của con tàu hay không. Các quốc gia khác chấp nhận các
chứng từ này cũng có giá trị như là những chứng từ mà mình cấp, trừ khi có lý
do xác đáng để cho rằng tình trạng con tàu trong một chừng mực quan trọng không
phù hợp với các ghi chú ở trên các chứng từ này.
Nếu một con tàu vi phạm
các quy tắc và quy định được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có
thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung, quốc gia cho tàu mang cờ, với
điều kiện không phương hại tới các Điều 218, 220 và 228, phải lập tức tiến hành
mọi cuộc điều tra và, nếu thấy cần thì, khởi tố đối với vụ vi phạm được suy
đoán đó, bất kể nơi xảy ra vụ vi phạm này hay vị trí mà nạn ô nhiễm do vụ vi
phạm gây ra đã xảy ra hoặc được xác nhận là ở đâu.
Khi tiến hành điều tra vụ
vi phạm, quốc gia mà tàu mang cờ có thể yêu cầu sự giúp đỡ của mọi quốc gia
khác mà sự hợp tác có thể có ích để làm sáng tỏ các hoàn cảnh của sự việc. Các
quốc gia cố gắng đáp ứng các yêu cầu thích hợp của các quốc gia mà tàu mang cờ.
Theo yêu cầu bằng văn bản
của một quốc gia,các quốc gia phải tiến hành điều tra về mọi vi phạm do tàu
thuyền mang cờ của họ có thể đã phạm phải. Quốc gia mà tàu mang cờ phải tiến
hành không chậm trễ việc truy tố về nội dung chính của sự vi phạm đã được suy
đoán theo đúng luật trong nước của mình, nếu tin chắc rằng đã có đủ chứng cứ để
tiến hành công việc này.
Quốc gia mà tàu mang cờ
thông báo ngay cho quốc gia yêu cầu và tổ chức quốc tế có thẩm quyền về vụ việc
đã được khởi tố và kết quả của nó. Tất cả các quốc gia đều được tiếp xúc với
những thông tin đã được thông báo đó.
Những chế tài được trù
định trong các quy luật và quy định của quốc gia đối với các tàu thuyền mang cờ
của mình cần phải nghiêm khắc để hạn chế các vụ vi phạm,ở bất cứ đâu.
Khi một chiếc tàu tự ý có
mặt ở trong một cảng hay ở một công trình cảng cuối cùng ngoài khơi, quốc gia
có cảng có thể mở một cuộc điều tra và, khi có các chứng cứ để chứng minh, có
thể khởi tố đối với bất kỳ sự thải đổ nào do chiếc tàu tiến hành ở ngoại nội
thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình, vi phạm các luật và quy
phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có
thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung.
Quốc gia có cảng không thể
khởi tố theo khoản 1 đối với một vụ vi phạm do việc thải đổ nào do chiếc tàu
tiến hành ở ngoài nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình,
hoặc là quốc gia mà tàu mang cờ hay quốc gia đã chịu, hay có nguy cơ phải chịu,
các tổn thất do việc thải đổ này gây ra yêu cầu.
Khi một con tàu tự ý có
mặt trong một cảng hay ở một công trình cảng cuối cùng ngoài khơi, quốc gia có
cảng cố gắng chấp nhận những đơn yêu cầu điều tra của bất kỳ quốc gia nào khác
về việc thải đổ có khả năng gây ra vụ vi phạm đã nêu ở khoản 1 có thể đã xảy ra
trong nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia yêu cầu, và
có thể đã gây ô nhiễm hay có nguy cơ gây ô nhiễm cho các vùng này. Quốc gia có
cảng cũng cố gắng chấp nhận đơn yêu cầu điều tra của quốc gia mà tàu mang cờ về
những vi phạm như thế, bất kể các vụ vi phạm này có thể xảy ra ở đâu.
Hồ sơ điều tra do quốc
gia có cảng tiến hành theo điều này được chuyển cho quốc gia mà tàu mang cờ hay
cho quốc gia ven biển theo yêu cầu của các quốc gia này. Bất kỳ việc nào do
quốc gia có cảng khởi tố dựa trên cơ sở của cuộc điều tra này, có thể bị đình chỉ
theo yêu cầu của quốc gia ven biển, với điều kiện phải tuân theo các quy định
của Mục 7, khi vụ vi phạm đã xảy ra trong nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền
về kinh tế của quốc gia ven biển này. Khi đó những chứng cứ, hồ sơ về sự việc,
cũng như mọi sự bảo lãnh hay đảm bảo tài chính đã được gửi cho những nhà đương
cục của quốc gia có cảng phải được chuyển cho quốc gia ven biển. Sau khi chuyển
giao hồ sơ, quốc gia có cảng không theo đuổi vụ kiện nữa.
Với điều kiện tuân thủ
Mục 7, khi các quốc gia, theo yêu cầu hay tự ý mình xác định rằng một con tàu
đang ở một trong các cảng của mình hay ở một trong các công trình cảng cuối
cùng ở ngoài khơi của mình đã vi phạm các qui tắc và quy phạm quốc tế có thể áp
dụng liên quan đến khả năng đi biển của tàu thuyền và có nguy cơ từ đó gây ra
thiệt hại cho môi trường biển, cần thi hành các biện pháp hành chính trong phạm
vi khả năng của mình để ngăn không cho chiếc tàu này rời bến. Các quốc gia này
chỉ cho phép chiếc tàu này đi vào xưởng sửa chữa thích hợp gần nhất và, một khi
đã loại trừ các nguyên nhân gây ra vi phạm, các quốc gia này cho phép chiếc tàu
này tiếp tục hành trình của mình ngay lập tức.
Khi một chiếc tàu tự ý có
mặt trong cảng hay ở một công trình cảng cuối cùng ngoài khơi với điều kiện
tuân thủ Mục 7, quốc gia có cảng có thể khởi tố về bất kỳ vi phạm nào đôi với
các luật và quy định mà mình đã thông qua theo đúng Công ước hay theo đúng các
qui tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm do tàu thuyền gây ra, nếu vụ vi phạm đã xảy ra trong lãnh hải hay trong
vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Khi một quốc gia có lý do
xác đáng cho rằng chiếc tàu trong lúc đi qua lãnh hải của mình đã vi phạm các luật
và quy định mà mình đã thông qua theo đúng công ước hay các nguyên tắc và quy
phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các
tàu thuyền gây ra thì quốc gia này có thể tiến hành kiểm tra cụ thể chiếc tàu
đã gây ra vụ vi phạm, nhưng không làm phương hại đến việc áp dụng các quy định thích
hợp của Mục 3 thuộc phần II, và, khi có các chứng cứ để chứng minh được điều đó
thì có thể khởi tố và đặc biệt có thể ra lệnh giữ chiếc tàu theo đúng luật
trong nước của mình, với điều kiện phải tuân thủ theo quy định của Mục 7.
Khi một quốc gia có lý do
xác đáng để cho rằng một con tàu đi trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trong
lãnh hải của mình đã vi phạm các quy tắc và quy phạm quốc tế đó và đem lại hiệu
lực cho chúng, quốc gia này có thể yêu cầu con tàu cung cấp các thông tin liên
quan đến lý lịch và cảng đăng ký của tàu, cảng cuối cùng và cảng sắp ghé vào của
tàu và các thông tin thích hợp cần thiết khác để xác định có phải một vụ vi
phạm đã xảy ra không.
Các quốc gia thông qua
các luật và qui định và thi hành các biện pháp cần thiết cho các tàu thuyền mang
cờ của mình đáp ứng các yêu cầu về thông tin đã nêu ở khoản 3.
Khi một quốc gia có các
lý do xác đáng để cho rằng một chiếc tàu đi trong đặc quyền kinh tế hay trong
lãnh hải của mình đã gây ra một vụ vi phạm trong vùng đặc quyền kinh tế đã nêu
ở khoản 3 dẫn đến những việc thải đổ nghiêm trọng vào môi trường biển, đã gây
ra hoặc có nguy cơ gây ra ở môi trường biển này một vụ ô nhiễm đáng kể, quốc gia
có thể tiến hành kiểm tra cụ thể con tàu để xác minh xem có phải đã có sự vi
phạm không, nếu như con tàu từ chối không đưa ra các thông tin, hay nếu những
thông tin được cung cấp mâu thuẫn rõ ràng với sự thật, và nếu các hoàn cảnh của
sự việc lý giải cho sự kiểm tra này.
Khi có chứng cứ chứng tỏ
rằng một chiếc tàu đi trong vùng đặc quyền về kinh tế hay lãnh hải của một quốc
gia đã gây ra trong vùng đặc quyền về kinh tế một vụ vi phạm đã nêu ở khoản 3
dẫn đến những việc thải đổ gây hoặc có nguy cơ gây ra những tổn thất nghiêm trọng
cho vùng duyên hải hay cho các lợi ích có liên quan của quốc gia ven biển hay
cho tất cả tài nguyên của lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình, thì
quốc gia đó, với điều kiện tuân thủ Mục 7 và nếu có các chứng cứ chứng minh
được điều trên, có thể tiến hành khởi tố, nhất là ra lệnh giữ con tàu lại theo
đúng luật trong nước của mình.
Mặc dù đã có khoản 6,
trong mọi trường hợp mà các thủ tục thích hợp đã được đặt ra qua trung gian của
tổ chức quốc tế có thẩm quyền, hoặc do thỏa thuận bằng mọi cách khác để tôn
trọng các nghĩa vụ liên quan đến việc nộp tiền bảo lãnh hay việc ký gửi một khoản
bảo đảm tài chính thích hợp khác, nếu như quốc gia ven biển có bị các thủ tục đó
ràng buộc, thì quốc gia đó cho phép chiếc tàu tiếp tục cuộc hành trình của
mình.
Các khoản 3, 4, 5, 6 và 7
cũng được áp dụng vào các luật và quy định quốc gia được thông qua theo điều
211, khoản 6.
Không một qui định nào
của phần này đụng đến các quyền của các quốc gia, theo pháp luật quốc tế, kể cả
tập quán lẫn theo công ước, định ra và tiến hành áp dụng ở ngoài lãnh hải các
biện pháp cân xứng với những thiệt hại mà các quốc gia này đã thật sự phải chịu
đựng hay bị đe dọa phải chịu nhằm bảo vệ vùng duyên hải hay các lợi ích có liên
quan của mình, kể cả việc đánh bắt hải sản, chống nạn ô nhiễm hay đe dọa ô
nhiễm do một tai nạn xảy ra trên biển hoặc do những hành vi gắn liền với một
tai nạn như vậy gây ra mà người ta có căn cứ để chờ đợi những hậu quả tai hại.
Trong điều này, thì “tai
nạn trên biển” có nghĩa là một vụ đâm va, mắc cạn hay sự cố hàng hải khác hoặc
sự kiện xảy ra ở trên hay ở một con tàu gây ra những thiệt hại về vật chất hay
đe dọa sắp gây ra những thiệt hại về vật chất cho một chiếc tàu hay hàng hóa
của nó.
Trong giới hạn của vùng
trời thuộc chủ quyền của mình hay đối với các tàu thuyền mang cờ của mình hoặc
các tàu hay phương tiện bay được mình cho đăng ký, các quốc gia bảo đảm việc áp
dụng các luật, quy định mà mình đã thông qua theo đúng điều 212, khoản 1, theo
đúng các quy định khác của Công ước, thông qua các luật và qui định, thi hành
các biện pháp khác để phát huy hiệu lực của các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể
áp dụng, được xây dựng qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay
qua một hội nghị ngoại giao nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi
trường có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay xuyên qua bầu khí quyển, theo đúng tất
cả các quy tắc và quy phạm quốc tế tương ứng liên quan đến an toàn hàng không.
Khi có một vụ kiện do áp
dụng phần này, các quốc gia thi hành các biện pháp để tạo thuận lợi cho việc
nghe nhân chứng và thu nhận các chứng cứ do các nhà đương cục của một quốc gia
khác hay do tổ chức quốc tế có thẩm quyền cung cấp và tạo điều kiện thuận lợi
cho việc tham gia các phiên tòa của các đại biểu chính thức của tổ chức này,
của quốc gia mà tàu mang cờ hay của bất kỳ quốc gia nào bị ảnh hưởng bởi nạn ô
nhiễm nảy sinh từ mọi vi phạm. Các đại biểu chính thức tham gia các phiên tòa
này có quyền và nghĩa vụ do luật trong nước hay pháp luật quốc tế trù định.
Chỉ có những nhân viên
chính thức có đủ tư cách, cũng như các tàu chiến hay phương tiện bay quân sự
hay các tàu thuyền hoặc các phương tiện bay khác có mang những dấu hiệu bên
ngoài chứng tỏ rõ ràng rằng chúng thuộc một cơ quan nhà nước và được phép tiến
hành công việc đó, có thể thi hành các việc cảnh sát đối với các tàu thuyền
nước ngoài theo phần này.
Khi thi hành quyền cảnh
sát của mình đối với tàu thuyền nước ngoài theo Công ước, các quốc gia không
được gây ra nguy hiểm cho an toàn hàng hải, không được gây ra một rủi ro nào
cho một con tàu hay dẫn con tàu đó về một cảng hoặc khu neo nguy hiểm, cũng
không gây ra rủi ro quá đáng cho môi trường biển.
a) Các quốc gia không
được giữ một chiếc tàu nước ngoài lâu quá mức cần thiết để tiến hành các cuộc
điều tra đã được trù định ở các Điều 216, 218 và 220. Việc kiểm tra cụ thể một
chiếc tàu nước ngoài phải được giới hạn ở việc xem xét các chứng từ, sổ đăng ký
hay các tài liệu khác mà chiếc tàu có nhiệm vụ phải mang theo, theo các quy tắc
và quy phạm quốc tế được chấp nhận chung, hay mọi tài liệu tương tự; chỉ có thể
tiến hành kiểm tra cụ thể chiếc tàu tỉ mỉ hơn tiếp theo sau cuộc xem xét này và
với điều duy nhất là:
Có các lý do xác đáng để
cho rằng tình trạng con tàu hay trang thiết bị của nó về cơ bản không phù hợp
với những ghi chú ở trên các tài liệu.
Nội dung của các tài liệu
này không đủ để xác minh và thẩm tra vụ vi phạm đã được suy đoán.
Con tàu không mang theo
các chứng từ và tài liệu có giá trị.
b) Khi qua cuộc điều tra
mà thấy rằng đã có sự vi phạm các luật và qui định có thể áp dụng hay các quy
tắc và quy phạm quốc tế nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, sau khi con tàu
đã hoàn thành các thể thức hợp lý, như việc ký gửi một khoản tiền bảo lãnh hoặc
một khoản bảo đảm tài chính khác, thì cần chấm dứt ngay việc cầm giữ.
c) Không làm phương hại
đến các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng về mặt khả năng đi biển của
tàu thuyền, nếu việc chấm dứt cầm giữ một con tàu sẽ có nguy cơ dẫn tới thiệt
hại do khinh suất đối với môi trường biển, thì con tàu nói trên có thể không
được phép tiếp tục cuộc hành trình, hoặc được phép nhưng với điều kiện là phải
đi đến xưởng sửa chữa thích hợp gần nhất. Trong trường hợp mà việc chấm dứt cầm
giữ con tàu bị từ chối hay bị đặt các điều kiện, thì quốc gia mà tàu mang cờ
phải được thông báo ngay về việc này và có thể yêu cầu chấm dứt việc cầm giữ
này theo đúng phần XV.
2. Các quốc gia hợp tác
để soạn thảo các thủ tục nhằm tránh khỏi việc kiểm tra cụ thể thừa đối với tàu
thuyền trên biển.
Khi thi hành các quyền và
làm tròn các nghĩa vụ của mình theo phần này, các quốc gia không được bắt các
tàu thuyền của một quốc gia nào khác phải chịu một sự phân biệt đối xử về mặt
pháp lý hay về mặt thực tế.
Khi một quốc gia tiến
hành các cuộc truy tố nhằm trừng phạt một vi phạm do một chiếc tàu nước ngoài
gây ra ở bên ngoài lãnh hải của quốc gia trên đối với các luật và quy định có
thể áp dụng hay các quy tắc và qui phạm quốc tế nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự
ô nhiễm do tàu thuyền gây ra, thì các cuộc truy tố này phải bị đình chỉ ngay sau
khi quốc gia mà tàu mang cờ đã tự mình tiến hành các cuộc truy tố đối với nội
dung chính của vụ vi phạm nói trên, trong vòng 6 tháng tiếp theo việc khởi tố
đầu tiên, trừ khi việc khởi tố này nhằm vào một trường hợp đã gây thiệt hại
nghiêm trọng cho quốc gia ven biển, hay quốc gia mà tàu mang cờ nói trên đã
nhiều lần không làm tròn nghĩa vụ của mình để bảo đảm áp dụng thực sự các quy
tắc và các quy phạm quốc tế hiện hành đối với các vụ vi phạm do tàu thuyền của
mình gây ra. Quốc gia mà tàu mang cờ khi đã yêu cầu đình chỉ các cuộc truy tố
theo đúng điều này trao lại trong thời gian thích hợp cho quốc gia đầu tiên một
hồ sơ đầy đủ về sự việc và các văn bản gốc của vụ án. Khi các tòa án của quốc
gia mà tàu mang cờ đã tuyên án thì các cuộc truy tố phải chấm dứt sau khi đã
thanh toán xong các chi phí về thủ tục, thì bất kỳ khoản tiền bảo lãnh hay
khoản bảo đảm tài chính nào khác được ký gửi khi tiến hành các cuộc truy tố này
đều phải được quốc gia ven biển trả lại.
Không thể tiến hành các
cuộc truy tố đối với tàu thuyền nước ngoài sau thời hạn 3 năm kể từ ngày vi
phạm, và không quốc gia nào có thể tiến hành rồi, với điều kiện phải tuân thủ
khoản 1.
Điều này không đụng chạm đến
quyền của quốc gia mà tàu mang cờ sử dụng mọi biện pháp, kể cả quyền tiến hành
các cuộc truy tố, theo đúng luật trong nước của mình, không phụ thuộc vào các
cuộc truy tố do một quốc gia khác tiến hành trước.
Không một quy định nào
của Công ước đụng chạm đến quyền khởi tố về trách nhiệm dân sự trong trường hợp
xảy ra những thiệt hại hay tổn thất do ô nhiễm môi trường biển.
Đối với trường hợp vi
phạm các luật và quy định quốc gia hay các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể
áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do các tàu thuyền
nước ngoài gây ra ở ngoài lãnh hải thì chỉ có thể áp dụng hình thức phạt tiền.
Đối với tình trạng vi
phạm các luật và quy định quốc gia hay các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể
áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, do một tàu
nước ngoài gây ra ở trong lãnh hải, thì chỉ có thể áp dụng hình thức phạt tiền,
trừ trường hợp đó là một hành động cố ý và gây ra ô nhiễm nghiêm trọng.
Trong tiến trình các cuôc
truy tố đã được tiến hành nhằm trừng phạt các vụ vi phạm thuộc lọai này do một
tàu nước ngoài phạm phải mà chiếc tàu có thể phải chịu đụng những hình thức xử phạt,
các quyền được thừa nhận của bị cáo vẫn được tôn trọng.
Các quốc gia thông báo
không chậm trễ cho các quốc gia mà tàu mang cờ và cho mọi quốc gia hữu quan
khác tất cả các biện pháp được sử dụng với tàu thuyền nước ngoài trong việc áp
dụng Mục 6, và giao cho quốc gia mà tàu mang cờ tất cả các báo cáo chính thức
có liên quan đến biện pháp này. Tuy nhiên, trong trường hợp các vụ vi phạm xảy
ra trong lãnh hải, quốc gia ven biển chỉ thực hiện các nghĩa vụ này đối với các
biện pháp đuợc dùng trong khuôn khổ các cuộc truy tố. Các nhân viên ngọai giao
hay các viên chức lãnh sự, và trong trường hợp có thể được, nhà đương cục về
biển của quốc gia mà tàu mang cờ được thông báo ngay về mọi biện pháp thuộc
loại này.
Các quốc gia chịu trách
nhiệm về những thiệt hại và tổn thất có thể qui cho họ do các biện pháp đã được
sử dụng trong việc áp dụng Mục 6, khi các biện pháp này là bất hợp pháp hay
vượt quá mức cần thiết hợp lý, có xét đến các thông tin sẵn có.
Không một quy định nào
của Mục 5, 7 và 6 đụng chạm đến chế độ pháp lý của các eo dùng cho hàng hải
quốc tế. Tuy nhiên, nếu một chiếc tàu nước ngoài không phải là các tàu thuyền
đã nêu ở Mục 10 vi phạm các luật và quy định đã nêu ở Điều 42 khoản 1, điểm a,
và b, gây ra hay đe dọa gây ra các thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường biển
của các eo biển, thì quốc gia có eo biển có thể thi hành các biện pháp cảnh sát
thích hợp, trong khi vẫn tôn trọng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết
về chi tiết) mục này.
Các quốc gia ven biển có
quyền thông quan và tiến hành áp dụng các luật và quy định không phân biệt đối xử
nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền gây ra
trong khu vực bị băng bao phủ và nằm trong ranh giới của vùng đặc quyền về kinh
tế, khi các điều kiện khí hậu đặc biệt khắc nghiệt và việc các khu vực bao phủ
phần lớn thời gian trong một năm gây trở ngại cho hàng hải hoặc hoặc làm cho
việc hàng hải trở nên đặc biệt nguy hiểm, và nạn ô nhiễm môi trường biển có
nguy cơ gây tác hại nghiêm trọng đến sự cân bằng sinh thái hay làm rối lọan sự
cân bằng này một cách không thể hồi phục được. Các luật và quy định này phải
lưu ý thích đáng đến hàng hải cũng như đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường
biển trên cơ sở của các dữ kiện khoa học chắc chắn nhất mà người ta có thể có
được.
Các quốc gia có trách
nhiệm quan tâm đến việc hoàn thành các nghĩa vụ quốc tế của mình về vấn đề bảo
vệ và gìn giữ môi trường biển. Các quốc gia có trách nhiệm theo đúng luật quốc
tế.
Quốc gia quan tâm làm sao
cho luật trong nước của mình có được những hình thức tố tụng cho phép thu được
sự đền bù nhanh chóng và thích đáng, hay sự bồi thường khác đối với những thiệt
hại nảy sinh từ ô nhiễm môi trường do tự nhiên nhân, hay pháp nhân thuộc quyền
tài phán của mình gây ra.
Để bảo đảm một sự đền bù
nhanh chóng và thích đáng mọi thiệt hại nảy sinh từ ô nhiễm môi trường biển,
các quốc gia cần hợp tác để bảo đảm áp dụng và phát triển luật quốc tế về trách
nhiệm có liên quan đến việc đánh giá và bồi thường các thiệt hại và việc giải
quyết các tranh chấp về mặt này, cũng như, nếu có thể, đến việc soạn thảo các
tranh chấp và thủ tục để thanh toán tiền bồi thường thích đáng, chẳng hạn trù định
một khoản bảo hiểm bắt buộc các quỹ bồi thường.
Các quy định của Công ước
liên quan đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển không áp dụng đối với các tàu
chiến hay tàu thuyền bổ trợ, cũng như đối với các tàu thuyền khác hay đối với các
phương tiện bay thuộc một quốc gia hay do quốc gia này, khai thác, khi trong
thời gian xem xét, quốc gia này chỉ sử dụng chúng vào những mục đích công vụ
không có tính chất thương mại. Tuy nhiên, mỗi quốc gia thi hành các biện pháp
thích hợp không ảnh hưởng đến các hoạt động hay khả năng hoạt động của tàu
thuyền hay phương tiện bay thuộc mình hay do mình khai thác, sao cho các tàu thuyền
hay phương tiện bay này hành động một cách thích hợp với Công ước trong chừng
mực có thể làm được.
Phần này không ảnh hưởng
đến các nghĩa vụ riêng thuộc bổn phận của các quốc gia theo các công ước hay
điều ước đặc thù được ký kết trước đây về mặt bảo vệ và gìn giữ môi trường
biển, cũng không ảnh hưởng đến các điều ước có thể được ký kết để áp dụng các
nguyên tắc chung đã được nêu trong Công ước.
Các quốc gia phải làm
tròn các nghĩa vụ riêng thuộc phận sự của mình có liên quan đến việc bảo vệ và
gìn giữ môi trường biển theo Công ước đặc biệt, một cách thích hợp với các
nguyên tắc và mục tiêu chung của Công ước.
Tất cả các quốc gia, bất
kể vị trí địa lý thế nào, cũng như các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có
quyền tiến hành các cuộc nghiên cứu khoa học biển, với điều kiện tôn trọng các
quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác như đã đuợc quy định trong Công uớc.
Các quốc gia và tổ chức
quốc tế có thẩm quyền khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển
khai và chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học biển theo đúng Công uớc.
Công tác nghiên cứu khoa
học biển phải phục tùng các nguyên tắc sau đây: Công tác này đuợc tiến hành nhằm
vào những mục đích hoàn toàn hòa bình;
Công tác này đuợc tiến
hành bằng cách dùng các phương pháp và phương tiện khoa học thích hợp phù hợp
với Công uớc;
Công tác này không cản
trở một cách vô lý những việc sử dụng biển hợp pháp khác phù hợp với Công uớc
và nó phải đuợc quan tâm đến trong các việc sử dụng này.
Công tác này đuợc tiến
hành theo đúng mọi quy định tương ứng đuợc thông qua để thi hành Cống uớc, kể
cả các quy định nhằm bảo vệ và giữ gìn môi truờng biển.
Công tác nghiên cứu khoa
học biển không tạo ra co sở pháp lý cho một yêu sách nào đối với một bộ phận
nào đó của môi truờng biển hay của các tài nguyên của nó.
Chấp hành nguyên tắc tôn
trọng chủ quyền và quyền tài phán, và trên cơ sở của nguyên tắc có đi có lại về
lợi ích, các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền tạo điều kiện thuận
lợi cho việc hợp tác quốc tế về mặt nghiên cứu khoa học biển vì mục đích hòa
bình.
Trong bối cảnh này và
không làm phương hại đến các quyền và nghĩa vụ các quốc gia theo Công uớc, một
quốc gia khi hành động theo phần này, cần tùy theo tình hình mà dành cho các
quốc gia khác các khả năng hợp lý để
nhận đuợc của mình hay với sự hợp tác của mình các thông tin cần thiết để ngăn
ngừa và chế ngự các tác hại đối với sức khỏe và đối với sự an toàn của con
nguời và môi truờng biển.
Các quốc gia, tổ chức
quốc tế có thẩm quyền hợp tác với nhau qua việc ký kết các hiệp định hai bên và
nhiều bên để tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo công tác nghiên
cứu khoa học biển trong môi truờng biển và kết hợp những nỗ lực của các nhà
nghiên cứu khoa học tiền hành nghiên cứu bản chất của các hiện tuợng, các quá
trình xảy ra trong môi truờng biển và các tác động qua lại của chúng.
Bằng các con đuờng thích
hợp và theo đúng Công uớc, các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền công
bố, phổ biến các thông tin liên quan đến các chương trình chủ yếu đuợc dự tính
và các mục tiêu của chúng, cũng như những kiến thức đuợc rút ra từ công tác
nghiên cứu khoa học biển.
Vì mục đích này, các quốc
gia, tự mình hay hợp tác với các quốc gia khác và với các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền, tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi các dữ kiện, thông
tin khoa học và cho việc chuyển giao các kiến thức rút ra từ công tác nghiên
cứu khoa học biển, đặc biệt là cho các quốc gia đang phát triển cũng như cho
việc tăng cuờng khả năng của chính các quốc gia này để tiến hành các công tác
nghiên cứu khoa học biển, nhất là bằng các chuong trình giúp cho các nhân viên
kỹ thuật và khoa học của họ đuợc huởng một sự giáo dục và đào tạo thích hợp.
Trong việc thực hiện chủ quyền
của mình, các quốc gia ven biển có đặc quyền quy định, cho phép và tiến hành
các công tác nghiên cứu khoa học biển ở trong lãnh hải chỉ đuợc tiến hành vợi
sự thảo thuận rõ ràng của quốc gia ven biển và trong các điều kiện do quốc gia
này ấn định.
Trong việc thi hành quyền
tài phán của mình, các quốc gia ven biển có quyền quy định, cho phép và tiến
hành các công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và
trên thềm lục địa của mình theo đúng các quy định tương ứng của Công uớc.
Công tác nghiên cứu khoa
học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và trên thềm lục địa đuợc tiến hành
với sự thỏa thuận của quốc gia ven biển.
Trong những truờng hợp
bình thuờng, các quốc gia ven biển thỏa thuận cho thực hiện các dự án nghiên
cứu khoa học biển mà các quốc gia khác hay các tổ chức quốc tế có thẩm quyền dự
định tiến hành trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình
theo đúng Công uớc, nhằm vào những mục đích hoàn toàn hòa bình và để tăng thêm
kiến thức khoa học về môi truờng biển, vì lợi ích của toàn thể loài nguời. Vì
mục đích này, các quốc gia ven biển thông qua các quy tắc và thủ tục bảo đảm sẽ
cho phép trong những thời hạn hợp lý và sẽ không khuớc từ một cách phi lý.
Trong việc áp dụng khoản
3, các truờng hợp có thể đuợc coi là bình thuờng ngay cả khi giữa quốc gia ven
biển và quốc gia đề nghị thực hiện công trình nghiên cứu không có quan hệ ngoại
giao.
Tuy nhiên, quốc gia ven
biển có thể tùy ý mình không cho phép thực hiện một dự án nghiên cứu khoa học
biển do một quốc gia khác hay một tổ chức quốc tế có thẩm quyền đề nghị tiến
hành ở vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình trong các truờng
hợp sau:
a. Nếu dự án có ảnh huởng
trực tiếp đến việc thăm dò và Khai thác các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và
không sinh vật;
b. Nếu dự án có dự kiến
công việc khoan trong thềm lục địa, sử dụng chất nổ hay đưa chất độc hại vào
trong môi truờng biển;
c. Nếu dự án dự kiến việc
xây dựng, khai thác hay sử dụng các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình đã nêu
ở các Điều 60 và 80;
d. Nếu những thông tin
đuợc thông báo về tình chất và mục tiêu của dự án theo Điều 248 không đúng,
hoặc nếu quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền, tác giả của dự án không
làm tròn những nghĩa vụ đã cam kết với quốc gia ven biển hữu quan trong một dự
án nghiên cứu truớc đây.
Mặc dầu khoản 5 đa quy
định như thế, các quốc gia ven biển cũng không thể thi hành quyền tùy ý khuớc
từ theo điểm a của khoản này, đối với các dự án nghiên cứu khoa học biển đuợc
tiến hành theo đúng phần này trên thềm lục địa ở cách đuờng cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải quá 200 hải lý, ngoài các khu vực đặc biệt mà bất kỳ lúc
nào các quốc gia ven biển cung có thể chính thức chỉ định làm nơi hoặc sẽ làm
nơi để tiến hành công việc khai thác hay thăm dò đi vào chi tiết trong một thời
hạn hợp lý. Các quốc gia ven biển thông báo trong những thời hạn hợp lý các khu
vực mà mình chỉ định cũng như tất cả những thay đổi có liên quan, nhung không
có trách nhiệm cung cấp các chi tiết về các công việc trên các khu vực này.
Khoản 6 đuợc áp dụng không
phương hại đến các quyền ở thềm lục địa đuợc thừa nhận cho các quốc gia ven
biển ở Điều 77.
Các công tác nghiên cứu
khoa học biển nói ở điều này không đuợc gây trở ngại một cách phi lý cho các
hoạt động do quốc gia ven biển tiến hành trong việc thi hành quyền thuộc chủ
quyền và quyền tài phán mà Công uớc đã trù định.
Một quốc gia ven biển là hội
viên của một tổ chức quốc tế, hay bị ràng buộc với tổ chức quốc tế đó qua một
hiệp định tay đôi và ở vùng đặc quyền về kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia
đó, tổ chức quốc tế nói trên muốn trực tiếp tiến hành, hay cho tiến hành duới
sự bảo trợ của mình một dự án nghiên cứu khoa học biển, thì nếu như quốc gia đó
đã chuẩn y dự án chi tiết khi tổ chức quốc tế quyết định tiến hành dự án, hay
là quốc gia đó đã sẵn sàng tham gia dự án nghiên cứu khoa học biển và không có
ý kiến phản đối nào sau thời gian 4 tháng, kể từ khi tổ chức đó thông báo cho
quốc gia về dự án nói trên, thì quốc gia đó coi như đa cho phép thực hiện dự án
đúng theo các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật đã thỏa thuận.
Các quốc gia và các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền muốn tiền hành các công tác nghiên cứu khoa học biển
trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của một quốc gia ven
biển, phải cung cấp cho quốc gia này, chậm nhất là không quá 6 tháng truớc thời
gian dự kiến để bắt đầu dự án nghiên cứu khoa học biển, một bản mô tả đầy đủ,
chỉ rõ:
Tính chất và các mục tiêu
của dự án
Phương pháp và các phương
tiện sẽ đuợc sử dụng; có nói rõ tên, trọng luợng, kiểu và loại tàu thuyền, và
một bản mô tả các dụng cụ khoa học;
Các khu vực địa lý cụ thể
mà dự án sẽ thực hiện;
Các thời hạn dự định cho
chuyện đến đầu tiên và chuyện ra đi cuối cùng của các tàu thuyền nghiên cứu,
hay thời hạn dự định cho việc triển khai và rút thiết bị, và thời hạn dự định
cho việc thu hồi dụng cụ nghiên cứu, tùy theo truờng hợp;
Tên cơ quan bảo trợ cho
dự án nghiên cứu, tên của giám đốc cơ quan này và của nguời chịu trách nhiệm dự
án;
Mức độ mà quốc gia ven
biển có thể tham gia vào dự án hay đuợc cử đại diện
1. Các quốc gia và tổ chức
quốc tế có thẩm quyền thực hiện công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng
đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của một quốc gia ven biển, cần phải
đáp ứng các điều kiện sau đây:
a. Bảo đảm cho quốc gia
ven biển, nếu quốc gia này muốn, quyền tham gia vào dự án nghiên cứu khoa học
biển hay đặc biệt là khi có thể đuợc, cử đại diện lên trên các tàu thuyền và
các xuồng nghiên cứu khác hay lên trên các thiết bị nghiên cứu khoa học, nhung
không phải thanh toán một khoản tiền thù lao nào cho những nhà nghiên cứu của
quốc gia này, và quốc gia này cũng không bị buộc phải đóng góp vào các kinh phí
của dự án;
b. Một khi công việc
nghiên cứu đã kết thúc, phải cung cấp càng sớm càng tốt, theo yêu cầu của quốc
gia ven biển, những báo cáo sơ bộ, cũng như các kết quả và kết luận cuối cùng;
c. Cam kết cho quốc gia
ven biển, theo yêu cầu của họ, tiếp xúc với tất cả các mẫu vật và dữ kiện thu
đuợc trong khuôn khổ của dự án nghiên cứu khoa học biển, cũng như cam kết cung
cấp cho quốc gia này những dữ kiện có thể sao lại và các mẫu vật có thể đuợc
phân chia mà không làm giảm giá trị khoa học của chúng;
d. Cung cấp cho quốc gia
ven biển, theo yêu cầu của họ, một bản đánh giá về các dữ kiện, các mẫu vật và
các kết quả nghiên cứu đó, hay giúp đỡ cho quốc gia này tiến hành đánh giá hoặc
giải thích chung;
e. Với điều kiện phải
thực hiện quy định ở khoản 2, bảo đảm cho các kết quả của công tác nghiên cứu
đuợc sẵn sàng đưa ra sử dụng càng sớm càng tốt trên truờng quốc tế qua các con
đuờng quốc gia hay quốc tế thích hợp.
f. Thông báo ngay cho
quốc gia ven biển bất kỳ sửa đổi quan trọng nào đối với dự án nghiên cứu;
g. Một khi công tác
nghiên cứu đã kết thúc, phải tháo gỡ các thiết bị hay công cụ nghiên cứu khoa
học, trừ khi có sự thỏa thuận khác.
2. Điều này đuợc áp dụng
không làm phương hại đến các điều kiện do các luật và quy định của quốc gia ven
biển ấn định về việc thi hành quyền tùy ý quyết định đồng ý hay không đồng ý
theo Điều 246, khoản 5, kể cả việc bắt buộc phải đuợc sự đồng ý truớc của nuớc
đó mới đuợc phổ biến trên phạm vi quốc tế các kết quả nghiên cứu thuộc một dự
án có liên quan trực tiếp đến việc thăm dò và khai thác các tài nguyên thiên
nhiên.
Các thông tin liên lạc
liên quan đến các dự án nghiên cứu khoa học biển phải đuợc tiến hành qua các
con đuờng chính thức thích hợp, trừ khi có sự thỏa thuận khác.
Các quốc qia hay các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền có thể thực hiện một dự án nghiên cứu khoa học sau
một thời hạn 6 tháng kể từ ngày các thông tin cần thiết theo Điều 248 đã đuợc
thông báo cho quốc gia ven biển, trừ khi trong một thời hạn 4 tháng kể từ lúc
nhận đuợc các thông tin này, quốc gia ven biển đã báo cho quốc gia hay tổ chức
đề nghị thực hiện các công tác nghiên cứu biết:
Quốc gia ven biển đã
khuớc từ theo Điều 246; hay
Các thông tin do quốc gia
hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền này cung cấp về tính chất hay mục tiêu của dự
án không phù hợp với sự thực hiển nhiên; hay
Quốc gia ven biển cần có
một thông báo bổ sung về những thông tin hoặc những điều kiện đã nêu ở các Điều
248 và 249; hay
Các nghĩa vụ nẩy sinh từ
các điều kiện đã đuợc quy định ở Điều 249 cho một dự án nghiên cứu khoa học
biển do quốc gia hay tổ chức quốc tế này thực hiện truớc đây đã không đuợc làm
tròn.
1. Quốc gia ven biển có
quyền yêu cầu đinh chỉ các công việc nghiên cứu khoa học biển đang tiến hành trong
vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình:
Nếu công việc này không
đuợc tiến hành theo đúng các thông tin đã đuợc thông báo theo Điều 248 mà quốc
gia ven biển đã dựa vào để đồng ý cho phép; hay
Nếu quốc gia hay tổ chức
quốc tế có thẩm quyền khi tiến hành công việc này không tôn trọng các quy định của
Điều 249 liên quan đến các quyền của quốc gia ven biển đối với dự án nghiên cứu
khoa học biển.
2. Quốc gia ven biển có
quyền yêu cầu chấm dứt mọi công việc nghiên cứu khoa học biển trong tất cả các
truờng hợp mà việc không tuân thủ Điều 248 có nghĩa là làm thay đổi lớn dự án
các công trình nghiên cứu.
3. Quốc gia ven biển cũng
có thể yêu cầu chấm dứt các công việc nghiên cứu khoa học biển, nếu như, trong
một thời gian hợp lý, một điểm bất kỳ trong những tình hình nêu ở khoản 1 không
đuợc sửa chữa.
4. Sau khi nhận đuợc
thông báo về quyết định của quốc gia ven biển đòi đinh chỉ hay chấm dứt công
việc nghiên cứu khoa học biển, các quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền
đã đuợc phép tiến hành các công việc này phải chấm dứt những công việc thuộc
đối tuợng của thông báo.
5. Lệnh đinh chỉ đuợc đưa
ra theo khoản 1 phải do quốc gia ven biển thu hồi, và dự án khoa học nghiên cứu
biển có thể đuợc tiếp tục ngay khi quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền
thực hiện các công tác nghiên cứu khoa học biển này đã tuân theo các điều kiện
quy định ở các Điều 248 và 249.
1. Các quốc gia và các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền khi đã trao cho một quốc gia ven biển một dự án
nghiên cứu khoa học biển nêu ở Điều 246, khoản 3, cần thông báo dự án này cho
các quốc gia láng giềng không có biển và các quốc gia láng giềng có hoàn cảnh
địa lý bất lợi, và báo cho quốc gia ven biển việc gửi các thông báo này.
2. Một khi quốc gia ven
biển có liên quan đã chấp thuận dự án, theo đúng điều 246 và các quy định thích
hợp khác của Công uớc, các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi
thực hiện dự án cần cung cấp cho các quốc gia láng giềng không có biển và các
quốc gia láng giềng có hoàn cảnh địa lý bất lợi các thông tin đã đuợc quy định rõ
ở các Điều 248 và 249, khoản 1, điểm f, theo yêu cầu của họ và tùy theo sự cần
thiết.
3. Các quốc gia không có
biển và các quốc gia bất lợi về mặt địa lý đã nói ở trên, theo yêu cầu của
mình, có khả năng đuợc tham gia trong chừng mực có thể vào dự án nghiên cứu
khoa học hiển đã đuợc dự tính qua các chuyên gia có trình độ do mình chỉ định
và đuợc quốc gia ven biển chấp nhận, theo những điều kiện mà quốc gia ven biển
và quốc qia hay các tổ chức quốc tế có thẩm quyền tiến hành công tác nghiên cứu
khoa học biển đã thảo luận để thực hiện dự án, phù hợp với Công uớc.
4. Các quốc gia và các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền đã nêu ở khoản 1 cung cấp cho các quốc gia không có
biển và các quốc gia bất lợi về mặt địa lý nói trên, theo yêu cầu của họ, những
thông tin và sự giúp đỡ đã đuợc quy định rõ ở Điều 249, khoản 1, điểm d, với
điều kiẹn phải tuân thủ khoản 2 của chính điều này.
Các quốc gia cố gắng
thông qua các quy tắc, quy định và thủ tục hợp lý nhằm khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học biển đuợc tiến hành theo đúng Công
uớc ở ngoài lãnh hải, và nếu cần, thì tạo điều kiện cho các tàu thuyền nghiên
cứu khoa học biển chấp hành các quy định thích hợp của phần này vào ra cảng của
các quốc gia nói trên đuợc dễ dàng, với điều kiện là phải tuân thủ theo các
luật và quy định của các quốc gia này, và phải khuyến khích sự giúp đỡ cho các
tàu thuyền này.
Tất cả các quốc gia, bất
kể hoàn cảnh địa lý của mình như thế nào, cũng như các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền, đều có quyền thực hiện việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng, theo
đúng phần XI.
Tất cả các quốc gia, bất
kể hoàn cảnh địa lý của mình như thế nào, cũng nhu các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền, đều có quyền thực hiện việc nghiên cứu khoa học biển theo đúng Công uớc
trong phần nuớc nằm ngoài ranh giới của vùng đặc quyền về kinh tế.
Việc đặt và sử dụng các
thiết bị hay dụng cụ nghiên cứu khoa học thuộc bất kỳ kiểu nào ở một vùng nào
đó của môi truờng biển phải phụ thuộc vào cùng các điều kiện như đã đuợc Công uớc
trù định cho việc tiến hành nghiên cứu khoa học biển ở trong khu vực kể trên.
Các thiết bị hay dụng cụ
đuợc nêu trong mục này, không có quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải
riêng, và sự có mặt của chúng không có ảnh huởng đến vấn đề hoạch định ranh
giới lãnh hải, vùng độc quyền về kinh tế hay thềm lục địa.
Các khu vực an toàn có
một chiều rộng hợp lý không quá 500m có thể đuợc lập ra xung quanh các thiết bị
nghiên cứu khoa học, theo đúng các quy định tuong ứng của Công uớc. Tất cả các
quốc gia phải chú ý bảo đảm cho tàu thuyền của mình tôn trọng các khu vực an
toàn này.
Việc đặt và sử dụng các
thiết bị hay dụng cụ nghiên cứu khoa học thuộc bất kỳ kiểu nào không đuợc gây
cản trở cho việc hàng hải theo các con đuờng quốc tế thuờng dùng.
Các thiết bị hay dụng cụ
đã nêu trong mục này phải có các dấu hiệu nhận dạng chỉ rõ quốc gia đăng ký hay
tổ chức quốc tế mà chúng phụ thuộc vào, cũng như, phải có các phuong tiện báo hiệu
thích hợp đã đuợc chấp thuận trên truờng quốc tế nhằm bảo đảm an toàn hàng hải
và hàng không, có tính đến các quy tắc và quy phạm do các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền đặt ra.
Bổn phận của các quốc gia
và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền là phải quan tâm, sao cho việc nghiên cứu
khoa học biển, bất kể chúng do hoặc nguời thay mặt cho họ thực hiện, đều đuợc
tiến hành theo đúng Công uớc.
Các quốc gia và tổ chức
quốc tế có thẩm quyền chịu trách nhiệm về những biện pháp mà mình thi hành, vi
phạm Công uớc, liên quan đến các công việc nghiên cứu khoa học biển do các quốc
gia khác, các tự nhiên nhân hay pháp nhân có quốc tịch của các quốc gia khác đó
hoặc do các tổ chức quốc tế có thẩm quyền tiến hành, và phải đền bù các tồn
thất do các biện pháp đó gây ra.
Các quốc gia và tổ chức
có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm, theo Điều 235, về các tổn thất gây ra bởi
nạn ô nhiễm môi truờng biển xuất phát từ việc nghiên cứu khoa học biển do mình
thực hiện hay do nguời thay mặt cho mình thực hiện.
Các tranh chấp liên quan
đến việc giải thích hay áp dụng các quy định của Công uớc về việc nghiên cứu
khoa học biển đuợc giải quyết theo đúng các Mục 2 và 3 của Phần XV
Chừng nào một tranh chấp
chưa đuợc giải quyết theo đúng các Mục 2 và 3 của Phần XV, thì quốc gia hay tổ
chức quốc tế có thẩm quyền đuợc phép thực hiện dự án nghiên cứu khoa học biển,
không cho phép thực hiện hay tiếp tục việc nghiên cứu khoa học nếu không có sự
đồng ý rõ ràng của các quốc gia ven biển hữu quan.
1. Các quốc gia hợp tác
trực tiếp, hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, trong phạm vi khả
năng của mình, nhằm tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và
chuyển giao khoa học và kỹ thuật biển theo các thể thức và điều kiện công bằng
và hợp lý.
2. Các quốc gia tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển khả năng trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật
biển của các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ về kỹ
thuật trong lĩnh vực này, nhất là các quốc gia đang phát triển, kể cả quốc gia
không có biển hay bất lợi về mặt địa lý, trong việc thăm dò, khai thác, bảo vệ
và quản lý các tài nguyên của biển, trong việc bảo vệ và giữ gìn môi trường
biển, trong việc nghiên cứu khoa học biển và các hoạt động khác nhằm tiến hành
trong môi trường biển phù hợp với Công ước, nhằm thúc đẩy tiển bộ xã hội và
kinh tế của các quốc gia đang phát triển.
3. Các quốc gia cố gắng
giúp tạo ra các điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi cho việc chuyển giao kỹ
thuật biển, trên cơ sở công bằng, có lợi cho tất cả các bên hữu quan.
Để tạo điều kiện cho sự
hợp tác theo Điều 266, các quốc gia cần phải tính đến tất cả các lợi ích chính đáng,
cũng như các quyền và nghĩa vụ của người nắm giữ, những người cung cấp và những
người được nhận các kỹ thuật biển.
Các quốc gia trực tiếp
hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, cần phải xúc tiến:
Việc nắm, đánh giá và phổ
biến các kiến thức trong lĩnh vực kỹ thuật biển; các quốc gia này tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tiếp xúc với các thông tin và các dữ liệu tương ứng;
Việc phát triển các kỹ
thuật biển thích hợp;
Việc phát triển hạ tầng
cơ sở về kỹ thuật cần thiết để làm dễ dàng cho việc chuyển giao các kỹ thuật
biển;
Việc khai thác nguồn nhân
lực qua việc đào tạo và giảng dạy cho các công dân của các quốc gia và các nước
đang phát triển, đặc biệt là những nước kém phát triển nhất trong các quốc gia
đang phát triển đó;
Việc hợp tác quốc tế ở
mọi mức độ, nhất là việc hợp tác theo khu vực, phân khu vực và tay đôi.
Để đạt đến các mục tiêu
cơ bản đã nêu ở Điều 268, ngoài các biện pháp khác, các quốc gia tìm cách, trực
tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, để:
Lập ra các chương trình
hợp tác kỹ thuật nhằm chuyển giao thực sự các kỹ thuật biển thuộc đủ mọi loại
cho các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu hưởng một sự giúp đỡ về mặt kỹ thuật biển
trong lĩnh vực này, nhất là cho các quốc gia đang phát triển không có biển hay
bất lợi về địa lý, cũng như cho các quốc gia đang phát triển khác không có khả năng
hoặc để tạo ra hoặc để phát triển khả năng kỹ thuận riêng của mình trong lĩnh
vực khoa học biển và trong lĩnh vực thăm dò và khai thác các tài nguyên của biển,
cũng không có khả năng phát triển hạ tầng cơ sở cần thiết cho các kỹ thuật này;
Giúp tạo ra các điều kiện
thuận lợi cho việc ký kết các hiệp định, các hợp đồng hay các thỏa thuận tương
tự khác, trong những điều kiện công bằng, hợp lý;
Tổ chức các hội nghị, hội
thảo và các cuộc thảo luận về các vấn đề khoa học và kỹ thuật, nhất là về các
chính sách và phương pháp cần đề ra để thực hiện chuyển giao các kỹ thuật biển;
Tạo điều khiện thuận lợi
cho việc trao đổi các nhà khoa học, kỹ thuật và các chuyên gia khác;
Thực hiện các dự án và
xúc tiến các xí nghiệp liên doanh và các hình thức hợp tác hai bên và nhiều bên
khác.
Việc hợp tác quốc tế để
phát triển và chuyển giao kỹ thuật biển được thực hiện, khi có thể được và
thích hợp, trong khuôn khổ của các chương trình hai bên, khu vực, và nhiều bên
hiện có, cũng như trong khuôn khổ của các chương trình được mở rộng và của các chương
trình mới, nhằm làm dễ dàng cho việc nghiên cứu khoa học biển và chuyển giao kỹ
thuật biển, đặc biệt, trong các lĩnh vực mới, và việc cấp kinh phí quốc tế
thích hợp cho việc nghiên cứu đại dương và khai thác các đại dương.
Các quốc gia, trực tiếp
hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, tìm cách xúc tiến việc soạn
thảo các nguyên tắc chỉ đạo, các tiêu chuẩn và qui phạm được chấp nhận chung về
việc chuyển giao kỹ thuật biền trong khuôn khổ của các thỏa hiệp hai bên hay
trong khuôn khổ của các tổ chức quốc tế và cơ quan khác, đặc biệt, có tính đến
các lợi ích và nhu cầu của quốc gia đang phát triển.
Trong lĩnh vực chuyển
giao kỹ thuật biển, các quốc gia cố gắng bảo đảm cho các tổ chức quốc tế có
thâtm quyền phối hợp với các hoạt động của họ, kể cả mọi chương trình khu vực
và thế giới, có tính đến các lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát
triển, đặc biệt là các quốc gia không có biển hay bất lợi về mặt địa lý.
Các quốc gia tích cực hợp
tác với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và với Cơ quan quyền lực nhằm khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao cho các quốc gia đang
phát triển, cho công dân của họ và cho xí nghiệp những kiến thức thực tiễn và
kỹ thuật biển có liên quan đến các hoạt động trong Vùng.
Về các hoạt động tiến
hành trong Vùng, Cơ quan quyền lực quan tâm tới mọi lợi ích chính đáng cũng như
các quyền và nghĩa vụ của những người nắm giữ, những người cung cấp và những
người được nhận kỹ thuật, đảm bảo cho:
Theo đúng nguyên tắc phân
chia công bằng về mặt địa lý, các công dân của các quốc gia đang phát triền, dù
là quốc gia ven biển, không có biển hay có hoàn cảnh địa lý bất lợi, được đưa
vào làm nhân viên tập sự trong số các nhân viên kỹ thuật, quản lý và nghiên cứu
được tuyển cho các nhu cầu hoạt động của Cơ quan quyền lực;
Tài liệu kỹ thuật về dụng
cụ, máy móc thiết bị và phương pháp đã dùng phải để cho tất cả các quốc gia sử
dụng, nhất là cho các quốc gia đang phát triển đang có nhu cầu và yêu cầu được
hưởng sự giúp đỡ kỹ thuật trong lĩnh vực này;
Các quy định thích hợp
phải được xác định ngay trong Cơ quan quyền lực để tạo điều kiện dễ dàng cho
các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ kỹ thuật trong
lĩnh vực kỹ thuật biển, nhất là các quốc gia đang phát triển, và công dân của
các nước này, nắm được các kiến thức và có trình độ thành thạo cần thiết, kể cả
việc được hưởng một sự đào luyện về nghề nghiệp.
Các quốc gia có nhu cầu
và yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ kỹ thuật trong lĩnh vực này, nhất là các quốc
gia đang phát triển, nhận được một sự giúp đỡ để có được trang thiết bị, các
phương pháp, dụng cụ và bí quyết kỹ thuật cần thiết, trong khuôn khổ của các thỏa
thuận tài chính trù định trong Công ước.
1. Các quốc gia, trực tiếp
hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và Cơ quan quyền lực, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thành lập, nhất là trong các quốc gia ven biển đang
phát triển, các trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển, và
tăng cường các trung tâm hiện có, để động viên và xúc tiến việc nghiên cứu khoa
học biển trong các quốc gia này và để phát triển khả năng riêng của từng nước
nhằm sử dụng và gìn giữ các tài nguyên biển của họ cho mục đích kinh tế.
2. Các quốc gia, thông
qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và Cơ quan quyền lực, góp phần giúp đỡ
thích đáng để tạo điều kiện dễ dàng cho việc thành lập và tăng cường các trung
tâm quốc gia nhằm làm cho các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng sự giúp
đỡ như vậy có được những phương tiện đào tạo tiên tiến, những thiết bị, những
kiến thức thực tiễn và sự thông thạo cần thiết, cũng như các chuyên gia kỹ
thuật.
1. Phối hợp với các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền, Cơ quan quyền lực và các viện nghiên cứu quốc gia
về khoa học và kỹ thuật biển, các quốc gia tạo điều kiện dễ dàng cho việc thành
lập, nhất là trong các quốc gia đang phát triển, các trung tâm nghiên cứu khoa học
và kỹ thuật biển của khu vực, nhằm khuyến khích và thúc đẩy việc nghiên cứu
khoa học biển trong các quốc gia này và để làm dễ dàng cho việc chuyển giao kỹ
thuật biển.
2. Tất cả các quốc gia
của cùng một khu vực cần tập hợp tác với các trung tâm của khu vực để bảo đảm
tốt hơn việc thực hiện các mục tiêu của họ.
Ngoài các chức năng khác,
các trung tâm khu vực có trách nhiệm bảo đảm: Các chương trình đào tạo và giảng
dạy ở mọi trình độ trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển khác
nhau, đặc biệt là môn sinh vật biển, đề cập trước hết là việc bảo về và quản lý
các tài nguyên sinh vật, môn hải dương học, thủy văn học, kỹ thuật công trình,
thăm dò địa chất đáy biển, khai thác mỏ và kỹ thuật khử mặn nước biển; Việc
nghiên cứu công tác quản lý;
Các chương trình nghiên
cứu có quan hệ đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển và việc ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm;
Việc tổ chức các hội
nghị, hội thảo và các cuộc thảo luận thuộc khu vực;
Thu thập và xử lý dữ kiện
và thông tin trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật biển;
Phổ biến nhanh chóng các
kết quả của việc nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển trong các tài liệu dễ phổ
cập;
Phổ biến các thông tin về
các chính sách quốc gia liên quan đến việc chuyển giao kỹ thuật biển, và việc
nghiên cứu so sánh có hệ thống các chính sách này;
Sưu tập và hệ thống hóa
các thông tin liên quan đến việc thương mại hóa các kỹ thuật, cũng như đến các
hợp đồng và các thỏa thuận khác về các chứng chỉ;
Hợp tác kỹ thuật với các
quốc gia khác của khu vực.
Các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền nói trong phần này và Phần XIII thi hành mọi biện pháp cần thiết để trực
tiếp hay bằng cách hợp tác chặt chẽ, làm tròn các chức năng và nhiệm vụ mà mình
đảm đương theo phần này.
Các quốc gia thành viên
giải quyết mọi tranh chấp xảy ra giữa họ về việc giải thích hay áp dụng Công
ước bằng các phương pháp hòa bình theo đúng Điều 2, khoản 3 của Hiến chương
liên hợp quốc và, vì mục đích này, cần phải tìm ra giải pháp bằng các phương
pháp đã được nêu ở Điều 33, khoản 1 của Hiến chương.
Không một quy định nào
của phần này ảnh hưởng đến quyền của các quốc gia thành viên đi đến thỏa thuận
giải quyết vào bất cứ lúc nào, bằng bất kỳ phương pháp hòa bình nào theo sự lựa
chọn của mình một vụ tranh chấp xảy ra giữa họ và vấn đề giải thích hay áp dụng
Công ước.
1. Khi các quốc gia thành
viên tham gia và một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công
ước đã thỏa thuận tìm cách giải quyết tranh chấp này bằng một phương pháp hòa
bình theo sự lựa chọn của mình, thì các
thủ tục được trù định trong phần này chỉ được áp dụng nếu người ta không đạt
được một cách giải quyết bằng phương pháp này và nếu sự thỏa thuận giữa các bên
không loại trừ khả năng tiến hành một thủ tục khác.
2. Nếu các bên cùng thỏa
thuận về một thời hạn, thì khoản một chỉ được áp dụng kể từ khi kết thúc thời
hạn này.
Khi các quốc gia thành
viên tham gia vào một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng
Công ước, trong khuôn khổ của một hiệp định chung, khu vực hay hai bên hay bất
kỳ cách nào, đã thỏa thuận rằng một vụ tranh chấp như vậy, sẽ phải tuân theo
một thủ tục dẫn đến một quyết định bắt buộc, thì thủ tục này được áp dụng thay
cho các thủ tục đã được trù định trong phần này, trừ khi các bên tranh chấp có
thỏa thuận khác.
1. Khi có tranh chấp xảy
ra giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công
ước, các bên tranh chấp tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm về cách giải
quyết tranh chấp bằng thương lượng hay bằng các phương pháp hòa bình khác.
2. Cũng như vậy, các bên
tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm mỗi khi kết thúc một thủ tục giải quyết
đối với một vụ tranh chấp như vậy mà không giải quyết được, hay mỗi khi đã có
một giải pháp và các hoàn cảnh đòi hỏi các cuộc tham khảo ý kiến liên quan đến
việc thi hành giải pháp đó.
1. Bất kỳ quốc gia nào
thành viên nào tham gia vào một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay
áp dụng Công ước đều có thể yêu cầu quốc gia khác hay các bên khác đưa vụ tranh
chấp ra hòa giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 1 của Phụ lục V, hay theo
một thủ tục hòa giải khác.
2. Khi yêu cầu đã được
chấp nhận và nếu các bên đồng ý về thủ tục hòa giải sẽ được áp dụng, thì bất kỳ
bên nào cũng có thể đưa ra vụ tranh chấp ra hòa giải theo thủ tục đó.
3. Khi yêu cầu không được
chấp nhận hay nếu các bên không thỏa thuận được về thủ tục hòa giải, thì coi
như đã chấm dứt việc hòa giải.
4. Khi một vụ tranh chấp
đã được đưa ra hòa giải, thì chỉ kết thúc việc hòa giải theo đúng thủ tục hòa
giải đã thỏa thuận, trừ khi các bên có sự thỏa thuận khác.
Mục này được áp dụng cho
bất kỳ vụ tranh chấp nào mà theo Mục 5 của Phần XI cần được giải quyết theo
đúng các thủ tục đã trù định trong phần này. Nếu một thực thế không phải là một
quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp như thế, thì mục này được áp
dụng mutalis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết).
Với điều kiện tuân thủ
Mục 3, mọi tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước khi
không được giải quyết bằng cách áp dụng Mục 1, theo yêu cầu của một bên tranh
chấp, đều được đưa ra trước tòa án có thẩm quyền theo mục này.
1. Khi ký hay phê chuẩn
Công ước hoặc tham gia Công ước, hay ở bất kỳ thời điểm nào sau đó, một quốc
gia được quyền tự do lựa chọn, hình thức tuyên bố bằng văn bản, một hay nhiều
biện pháp sau đây để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc giải thích
hay áp dụng Công ước:
Tòa án quốc tế về Luật
biển được thành lập theo đúng Phụ lục VII; Toà án quốc tế;
Một tòa trọng tài được
thành lập theo đúng Phụ lục VII;
Một tòa trọng tài đặc
biệt được thành lập theo đúng Phụ lục VIII để giải quyết một hay nhiều loại
tranh chấp đã được qui định rõ trong đó.
2. Một bản tuyên bố theo
khoản 1 không ảnh hưởng đến nghĩa vụ của một quốc gia thành viên phải chấp nhận,
trong phạm vi và theo các thể thức được trù định ở Mục 5 của phần XI, thẩm
quyền của Viện giải quyết các tranh chấp có liên quan đến đáy biển thuộc Toàn
án quốc tế về luật biển và tuyên bố đó cũng không bị nghĩa vụ này tác động đến.
3. Một quốc gia thành
viên tham gia vào một vụ tranh chấp mà không được một tuyên bố còn có hiệu lực
bảo vệ, thì được xem là đã chấp nhận thủ tục trọng tài đã trù định ở Phụ lục
VII.
4. Nếu các bên tranh chấp
đã chấp nhận cùng một thủ tục để giải quyết tranh chấp, thì vụ tranh chấp đó
chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo thủ tục đó, trừ khi các bên có thỏa
thuận khác.
5. Nếu các bên tranh chấp
không chấp nhận cùng một thủ tục để giải quyết tranh chấp, thì vụ tranh chấp đó
chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo thủ tục trọng tài đã được trù định ở Phụ
lục VII, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
6. Một bản tuyên bố theo
đúng khoản 1 vẫn còn hiệu lực trong vòng 3 tháng sau khi đã gửi một thông báo
hủy bỏ cho Tổng thư ký Liên hợp quốc.
7. Một tuyên bố mới, một
thông báo hủy nbỏ hay việc một tuyên bố hết hạn không hề ảnh hưởng đến thủ tục
đang tiến hành trước một toàn án có thẩm quyền theo điều này, trừ khi các bên
có thỏa thuận khác.
8. Các tuyên bố và thông
báo đã nêu ở điều này được gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc để lưu chuyển và
Tổng thư ký Liên hợp quốc chuyển các bản sao cho các quốc gia thành viên.
1. Một tòa án đã nêu ở
Điều 287 có thẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải
thích hay áp dụng Công ước đã được đưa ra cho mình theo đúng phần này.
2. Một tòa án nói ở Điều
287 cũng có thẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải
thích hay áp dụng một điều ước quốc tế có liên quan đến các mục đích của Công ước
và đã được đưa ra cho mình theo đúng điều ước này.
3. Viện giải quyết tranh chấp
liên quan đến đáy biển được lập nên theo đúng phụ lục VI và bất kỳ viện nào
khác, hay tòa trọng tài nào khác, đã nêu ở Mục 5 của Phần XI, đều có thẩm quyền
xét xử mọi vấn đề đã được đưa ra cho mình theo đúng mục đó.
4. Trong trường hợp có sự
tranh cãi về vấn đề một tòa án có thẩm quyền hay không, thì vấn đề này do tòa
án đó quyết định.
Đối với mọi tranh chấp đụng
chạm đến những vấn đề khoa học hay kỹ thuật, một tòa án khi thi hành thẩm quyền
của mình theo mục này, theo yêu cầu của một bên hay tự ý mình, và qua tham khảo
ý kiến các bên, có thể lựa chọn trên một bản danh sách thích hợp được lập nên
theo đúng Điều 2 của phụ lục VIII, ít nhất là 2 chuyên viên khoa học hay kỹ
thuật tham gia tòa án nhưng không có quyền biểu quyết.
1. Nếu một tòa án được đề
nghị xét một vụ tranh chấp theo đúng thủ tục và thấy prima facie (hiển nhiên) là
mình có thẩm quyền theo phần này hay Mục 5 của phần XI, thì tòa án này có thế
qui định tất cả các biện pháp bảo đảm mà mình xét thấy thích hợp với tình hình
để bảo vệ các quyền riêng của từng bên tranh chấp hay để ngăn không cho môi trường
của biển bị những tổn thất nghiêm trọng, trong khi chờ quyết định cuối cùng.
2. Các biện pháp bảo đảm
có thể bị sửa đổi hay hủy bỏ ngay khi các hoàn cảnh chứng minh cho các biện
pháp đó thay đổi hay không còn tồn tại.
3. Các biện pháp bảo đảm
chỉ có thể được qui định, sửa đổi hay hủy bỏ theo điều này, theo yêu cầu của
một bên tranh chấp và sau khi đã tạo cho các bên tranh chấp khả năng thỏa thuận
được với nhau.
4. Toà án thông báo ngay
mọi biện pháp bảo đảm hay mọi quyết định sửa bỏ hay hủy bỏ biện pháp đó cho các
bên tranh chấp, và nếu xét thấy thích hợp, thì thông báo cho các quốc gia thành
viên khác.
5. Trong khi chờ lập ra
một tòa trọng tài xét xử một vụ tranh chấp theo mục này, mọi tòa án do các bên
thỏa thuận với nhau chỉ định, hoặc, nếu không thỏa thuận được trong một thời
hạn 2 tuần sau ngày có yêu cầu các biện pháp bảo đảm. Toà án quốc tế về luật
biển, hay trong trường hợp của các hoạt động tiến hành trong Vùng, Viện giải
quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển, có thể quy định, sửa đổi hay hủy
bỏ các biện pháp bảo đảm theo đúng điều này, nếu như họ thấy prima facie (hiển
nhiên) rằng tòa án cần được lập ra sẽ có thẩm quyền, và nếu như họ xét thấy
rằng tính chất khẩn trương của tình hình đòi hỏi phải làm như vậy. Một khi được
thành lập, tòa án được giao xét xử vụ tranh chấp, hành động theo đúng các khoản
1 đến 4, có thể sửa đổi, hủy bỏ hay xác nhận biện pháp bảo đảm này.
6. Các bên tranh chấp phải
tuân theo không chậm trễ các biện pháp bảo đảm được quy định theo điều này.
1. Tất cả các thủ tục
giải quyết tranh chấp được trù định trong phần này đều để ngỏ cho các quốc gia
thành viên.
2. Các thủ tục để giải
quyết tranh chấp được trù định trong phần này chỉ để ngo cho các thực thể không
phải là quốc gia thành viên trong phạm vi mà Công ước đã trù định một cách rõ
ràng.
1. Khi các nhà chức trách
của một quốc gia thành viên đã bắt giữ một chiếc tàu mang cờ của một quốc gia
thành viên khác và nếu thấy rằng quốc gia bắt giữ chiếc tàu đã không tuân theo
các qui định của Công ước trù định việc giải phóng ngay cho tàu thuyền hay trả
tự do cho đoàn thủy thủ của nó ngay khi ký gởi một khoản tiền bảo lãnh hợp lý
hay một khoản bảo đảm tài chính nào khác, thì vấn đề giải phóng tàu hay trả tự
do cho đoàn thủy thủ phải được đưa ra trước một tóa án do các bên chỉ định theo
một thỏa thuận chung; nếu không thỏa thuận đuợc trong một thời hạn 10 ngày kể
từ lúc bắt giữ chiếc tàu hay đoàn thủy thủ, vấn đề này có thể được đưa ra trước
một tòa án được quốc gia đã tiến hành bắt hay giữ tàu hay đoàn thủy thủ chấp
nhận theo đúng Điều 287, hay trước Tòa án quốc tế về luật biển, trừ khi các bên
có thỏa thuận khác.
2. Yêu cầu giải phóng hay
trả tự do chỉ có thể do quốc gia mà tàu mang cờ hoặc nhân danh quốc gia ấy đưa
ra.
3. Tòa án nhanh chóng xem
xét yêu cầu này và chỉ xét xử vấn đề giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy
thủ, việc này không có ảnh hưởng gì đến tiến trình tiếp sau của mọi vụ kiện mà
chiếc tàu, người chủ chiếc tàu hay đoàn thủy thủ của nó có thể là đối tượng trước
quyền tài phán quốc gia thích hợp. Các nhà chức trách của quốc gia đã tiến hành
bắt, giữ vẫn có đủ tư cách ra lệnh giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy
thủ của nó vào bất kỳ lúc nào.
4. Ngay khi đã ký gửi
khoản tiền bảo lãnh hay một khoản bảo đảm tài chính khác theo quyết định của
tòa án, các nhà chức trách của quốc gia đã bắt giữ tàu phải tuân theo quyết
định của tòa án về việc giải phóng tàu và trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó.
1. Tòa án có thẩm quyền
theo mục này áp dụng các qui định của Công ước và các qui tắc khác của pháp
luật quốc tế không mâu thuẫn với Công ước.
2. Khoản 1 không đụng
chạm đến quyền hạn của tòa có thẩm quyền theo mục này để xét xử ex aequo bono
(công bằng) nếu các bên thỏa thuận.
1. Tòa án được trù định ở
Điều 287 nhận được đơn yêu cầu xét xử một vụ tranh chấp nói ở Điều 297 quyết
định theo thỉnh cầu của một bên, hay có thể quyết định theo ý mình, xem yêu cầu
này có phải là một sự lạm dụng các phương pháp tố tụng hay prima facie (hiển
hiên) là có căn cứ. Nếu tòa án xét thấy rằng, đó là một sự lạm dụng các phương
pháp tố tụng hay prima facie (hiển hiên) là không có căn cứ, thì tòa án thôi không
xét đơn nữa.
2. Lúc nhận được đơn, tòa
án thông báo ngay cho bên kia hay các bên kia, và qui định một thời hạn hợp lý,
để các bên này có thể yêu cầu tòa quyết định về các điểm đã nêu ở khoản 1.
3. Điều này không hề đụng
chạm đến các quyền của một bên tranh chấp nêu lên những phản bác sơ bộ theo
đúng các qui tắc tố tụng có thể áp dụng.
Một vụ tranh chấp giữa các
quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, chỉ có
thể được đưa ra giải quyết theo các thủ tụ đã qui định ở mục này sau khi các
biện pháp tố tụng nội bộ đã được sử dụng hết theo đòi hỏi của pháp luật quốc
tế.
1. Các quyết định do tòa
án có thẩm quyền theo mục này đưa ra là có tính chất tối hậu, và tất cả các bên
tranh chấp phải tuân theo.
2. Các quyết định đó chỉ có
tính chất bắt buộc đối với các bên và trong trường hợp riêng biệt được xem xét.
1. Các vụ tranh chấp liên
quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước về việc thi hành các quyền thuộc
chủ quyền hay quyền tài phán của quốc gia ven biển như đã được trù định trong
Công ước, được xét theo các thủ tục giải quyết đã được trù định ở Mục 2 trong
các trường hợp sau đây:
Khi thấy rằng quốc gia
ven biển đã không tuân theo Công ước liên quan đến tự do và quyền hàng hải,
hàng không hoặc tự do và quyền đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, cũng như đến việc
sử dụng biển vào các mục đích khác mà quốc tế thừa nhận là chính đã nêu ở Điều
58;
Khi thấy rằng trong việc
thi hành các tự do và các quyền đó hoặc trong việc sử dụng các quyền này, một
quốc gia đã không tuân theo Công ước hay các luật hoặc các qui định do quốc gia
ven biển đề ra phù hợp với các qui định của Công ước và các qui tắc khác của
pháp luật quốc tế không trái với Công ước; hoặc
Khi thấy rằng quốc gia
ven biển đã không tuân theo các qui tắc hay quy phạm quốc tế đã được xác định
nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển có thể áp dụng cho quốc gia này và đã
được Công ước đặt ra, hay được đặt ra thông qua một tổ chức quốc tế có thẩm
quyền hay một hội nghị ngoại giao hành động phù hợp với Công ước.
2. a) Các vụ tranh chấp
liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các qui định của Công ước về nghiên
cứu khoa học biển được giải quyết theo đúng Mục 2, trừ khi quốc gia ven biển
không chịu chấp nhận theo cách giải quyết như thế đối với một vụ tranh chấp
phát sinh từ:
Việc quốc gia này thi
hành một quyền tùy ý quyết định theo đúng Điều 246; hay
Quyết định của quốc gia
này ra lệnh đình chỉ hoặc chấm dứt tiến hành một dự án nghiên cứu theo đúng
Điều 253;
b) Các vụ tranh chấp phát
sinh từ một luận cứ của quốc gia nghiên cứu cho rằng trong trường hợp của một dự
án riêng biệt, quốc gia ven biển không sử dụng các quyền mà các Điều 246 và 253
đã dành cho mình một cách phù hợp với Công ước, thì theo yêu cầu của bên này hay
bên khác được đưa ra hòa giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 2 của Phụ lục
V, dĩ nhiên là Ủy ban hòa giải không được xét việc thi hành quyền tùy ý quyết định
của quốc gia ven biển trong việc chỉ định các khu vực đặc biệt, như đã được trù
định ở Điều 246, khoản 6, cũng như việc thi hành quyền tùy ý không cho phép
theo đúng khoản 5 của cùng điều đó.
3. a) Các việc tranh chấp
liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các qui định của Công ước về việc
đánh bắt hải sản được giải quyết theo đúng Mục 2, trừ khi quốc gia ven biển
không chịu chấp nhận cách giải quyết như vậy về một vụ tranh chấp liên quan đến
các quyền thuộc chủ quyền của mình đối với các tài nguyên sinh vật thuộc Vùng
đặc quyền về kinh tế của mình, hay liên quan đến việc thi hành các quyền này,
kể cả quyền tùy ý qui định khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được và khả
năng đánh bắt của mình, phân phối số dư ra giữa các quốc gia khác, quyết định
các thể thức, điều kiện đặt ra trong các luật và qui định của mình về bảo vệ và
quản lý;
b) Nếu việc vận dụng Mục
1, không cho phép đi đến một cách giải quyết, thể theo yêu cầu của một bên nào
đó trong số các bên tranh chấp, vụ tranh chấp được đưa ra hòa giải theo thủ tục
được trù định ở Mục 2 của Phụ lục V, khi chứng minh được rằng quốc gia ven biển
đã:
Rõ ràng không thực hiện
nghĩa vụ phải dùng các biện pháp bảo vệ và quản lý thích hợp để bảo đảm rằng việc
duy trì các tài nguyên sinh vật thuộc vùng đặc quyền kinh tế không bị ảnh hưởng
nghiêm trọng;
Độc đoán từ chối việc quy
định, theo yêu cầu của một quốc gia khác khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được
và khả năng khai thác tài nguyên sinh vật của mình đối với các đàn (stocks) hải
sản mà việc khai thác có liên quan đến quốc gia khác đó; hay
Độc đoán từ chối việc
chia cho một quốc gia nào đó toàn bộ hay một phần số cá dư mà mình đã xác nhận,
như đã trù định ở các Điều 62, 69 và 70 và theo các thể thức và điều kiện mà
bản thân mình đã qui định và phù hợp với Công ước;
Ủy ban hòa giải không có
trường hợp nào được phép dùng quyền túy ý quyết định của mình thay cho quyền
tùy ý quyết định của các quốc gia ven biển.
Báo cáo của Ủy ban hòa
giải phải được thông báo cho các tổ chức quốc tế thích hợp.
Khi đàm phán về các thỏa
thuận đã trù định ở các Điều 69 và 70, các quốc gia thành viên, trừ khi có thỏa
thuận khác, ghi vào đó một điều khoản trù định các biện pháp mà mình phải thi hành
để giảm đến mức tối thiểu các khả năng bất đồng về việc giải thích hay áp dụng
thỏa thuận, cũng như thủ tục phải tuân theo trong trường hợp vẫn có bất đồng.
1. Khi ký kết, phê chuẩn
hay tham gia Công ước, hoặc ở vào bất kỳ thời điểm nào sau đó, với điều kiện
không phương hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ Mục 1, một quốc gia có thể tuyên
bố bằng văn bản rằng mình không chấp nhận một hay nhiều thủ tục giải quyết các
tranh chấp đã được trù định ở Mục 2 có liên quan đến một hay nhiều loại tranh
chấp sau đây:
a) i. Các vụ tranh chấp
về việc giải thích hay áp dụng các Điều 15, 74 và 83 liên quan đến việc hoạch
định ranh giới các vùng biển hay các vụ tranh chấp về các vịnh hay danh nghĩa
lịch sử, nghĩa là khi một tranh chấp như thế xảy ra sau khi Công ước có hiệu
lực và nếu các bên không đi đến một thỏa thuận nào bằng con đường thương lượng
trong một thời hạn hợp lý, thì quốc gia đã tuyên bố, theo yêu cầu của một trong
các bên, chấp nhận đưa vụ tranh chấp đó ra hòa giải theo thủ tục đã được trù
định ở Mục 2 của phụ lục V, và đương nhiên không thể đưa ra xét theo thủ tục
này một vụ tranh chấp nào đòi hỏi nhất thiết phải xem xét đồng thời một vụ
tranh chấp chưa được giải quyết liên quan đến chủ quyền và các quyền khác trên
một lãnh thổ đất liền hay đảo;
ii. Một khi Ủy ban hòa
giải đã trình bày báo cáo của mình, báo cáo phải nói rõ được lý do, thì các bên
thương lượng về một thỏa thuận trên cơ sở của báo cáo này; nếu các cuộc thương
lượng không thành, thì các bên, qua sự thỏa thuận với nhau, đưa vấn đề ra theo
các thủ tục đã được quy định ở Mục 2, trừ khi các bên có thỏa thuận khác;
iii. Điểm nhỏ này không
áp dụng đối với các vụ tranh chấp liên quan đến việc hoạch định ranh giới các
vùng biển đã được một thỏa thuận giữa các bên giải quyết dứt khoát, cũng như
đối với các vụ tranh chấp phải được giải quyết theo đúng một bạn thỏa thuận hai
bên hay nhiều bên có tính chất ràng buộc các bên;
b) Các vụ tranh chấp liên
quan đến các hoạt động quân sự, kể cả hoạt động quân sự của tàu thuyền và phương
tiện bay của Nhà nước được sử dụng cho một dịch vụ không có tính chất thương
mại, và các vụ tranh chấp liên quan đến các hành động bắt buộc chấp hành, đã
được thực hiện trong việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hoặc quyền tài
phán mà Điều 297, khoản 2 và 3, đã loại trừ khỏi thẩm quyền của một Tòa án;
c) Các vụ tranh chấp mà
Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, trong khi thi hành các chức năng của mình do
Hiến chương Liên hợp quốc giao phó có trách nhiệm giải quyết, trừ khi Hội đồng bảo
an quyết định xóa vấn đề trong chương trình nghị sự của mình hay yêu cầu các
bên tranh chấp giải quyết tranh chấp của họ bằng các phương pháp đã qui định
trong Công ước.
2. Một quốc gia thành
viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, thì bất kỳ lúc nào cũng có thể rút lui
tuyên bố đó hay thỏa thuận đưa ra một vụ tranh chấp mà tuyên bố này đã loại
trừ, ra trước bất cứ thủ tục giải quyết nào đã được trù định trong Công ước.
3. Một quốc gia thành
viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, thì không thể đưa ra một vụ tranh chấp,
nằm trong một loại tranh chấp đã bị loại trừ, ra trước một thủ tục nào đó trong
số các thủ tục đã được trù định trong Công ước, nếu không có sự thỏa thuận của
quốc gi thành viên đang tranh chấp với mình.
4. Nếu một quốc gia thành
viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, điểm a, thì bất kỳ quốc gia thành viên
nào khác cũng có thể đưa ra mọi tranh chấp giữa quốc gia đó với quốc gia đã ra
tuyên bố và nằm trong một loại tranh chấp đã bị loại trừ, ra giải quyết theo
thủ tục được định rõ trong tuyên bố này.
5. Một tuyên bố mới hay
một thông báo rút lui một tuyên bố không hề có tác động đến thủ tục đang áp
dụng trước một toàn án xét xử theo đúng điều này, trừ khi các bên có thỏa thuận
khác.
6. Các tuyên bố hay các
thông báo rút lui các tuyên bố nói ở điều này phải được gửi cho Tổng thư ký
Liên hợp quốc để lưu chuyển, Tổng thư ký Liên hợp quốc chuyển các bản sao các
văn kiện đó cho các quốc gia thành viên.
1. Bất kỳ tranh chấp nào
khi đã bị loại khỏi các thủ tục giải quyết các tranh chấp được trù định ở Mục 2
theo Điều 297 hoặc bằng một tuyên bố theo đúng Điều 298, thì chỉ có thể được
đưa ra giải quyết theo các thủ tục này qua sự thỏa thuận của các bên tranh
chấp.
2. Không một quy định nào
của mục này đụng chạm đến quyền của các bên tranh chấp trong việc thỏa thuận sử
dụng một thủ tục khác để giải quyết vụ tranh chấp, hay thỏa thuận giải quyết vụ
tranh chấp bằng sự giàn xếp ổn thỏa.
Các quốc gia thành viên
phải có thiện chí hoàn thành các nghĩa vụ đã đảm nhận theo nội dung Công ước,
và thực hiện các quyền, thẩm quyền và các tự do đã được thừa nhận trong Công ước,
sao cho không để xảy ra tình trạng lạm quyền.
Trong việc thực hiện các
quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình theo đúng Công ước, các quốc gia thành viên
tránh dựa vào việc đe dọa hay sử dụng vũ lực để xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ hay
độc lập chính trị của mọi quốc gia hay tránh cùng bất kỳ cách nào khác không
phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương
Liên hợp quốc.
Không phương hại đến
quyền của mọi quốc gia thành viên dựa vào các thủ tục giải quyết các vụ tranh
chấp đã được trù định trong Công ước, không qui định nào của Công ước có thể
được giải thích như là bắt buộc một quốc gia thành viên, trong khi thi hành các
nghĩa vụ của mình theo Công ước, cung cấp các thông tin mà việc tiết lộ sẽ là
trái với các lợi ích thiết yếu của mình về mặt an ninh.
Các quốc gia có nghĩa vụ
bảo vệ các hiện vật có tính chất khảo cổ hay lịch sử được phát hiện ở biển; các
quốc gia hợp tác với nhau vì mục đích ấy.
Để kiểm soát việc mua bán
hiện vật này, bằng cách áp dụng Điều 33, quốc gia ven biển có thể coi việc lấy
các hiện vật đó từ đáy biển trong vùng nói ở điều đó mà không có sự thỏa thuận
của mình là sự vi phạm các luật và qui định của quốc gia ven biển ở trên lãnh thổ
hay trong lãnh hải của mình, đã được nêu ở Điều 33.
Điều này không đụng chạm
đến các quyền của những người sở hữu có thể được xác nhận, cũng không đụng chạm
đến quyền thu hồi các xác tàu và các qui tắc khác của luật hàng hải cũng không
đụng chạm đến các luật và tập quán về mặt trao đổi văn hóa.
Điều này không làm phương
hại đến các điều ước quốc tế khác và các qui tắc của pháp luật quốc tế liên
quan đến việc bảo vệ các hiện vật có tính chất khảo cổ hay lịch sử.
Các qui định của Công ước
liên quan đến trách nhiệm trong trường hợp xảy ra thiệt hại không phương hại
đến việc áp dụng các qui tắc hiện hành và việc lập ra các qui tắc mới liên quan
đến trách nhiệm theo pháp luật quốc tế.
1. Công ước để ngỏ cho
các đối tượng sau đây được ký: Tất cả các quốc gia;
Nước Na-mi-bi-a do Hội
đồng của Liên hợp quốc về Na-mi-bi-a đại diện;
Tất cả các quốc gia liên
kết tự trị đã chọn chế độ này qua một hành động tự quyết do Liên hợp quốc giám sát
và phê chuẩn theo Nghị quyết 1514 (XV) của Đại hội đồng và có thẩm quyền đối
với các vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về các vấn
đề đó;
Tất cả các quốc gia liên kết
tự trị mà theo các văn bản liên kết, có thẩm quyền đối với các vấn đề mà Công
ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về các vấn đề đó;
Tất cả các lãnh thổ có
quyền tự trị hoàn toàn về nội trị được Liên hợp quốc thừa nhận, nhưng chưa giành
được nền độc lập hoàn toàn phù hợp với Nghị quyết 1514 (XV) của Đại hội đồng và
có thẩm quyền đối với các vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký các
hiệp ước về các vấn đề đó;
Các tổ chức quốc tế theo
đúng phụ lục IX.
Công ước để ngỏ cho việc
ký kết tại Bộ Ngoại giao nước Gia-mai-ca cho đến ngày 09-12-1984 cũng như tại
trụ sở của Liên hợp quốc tại Niu Oóc từ 1-7-1983 đến 9-12-1984.
Công ước phải được các quốc
gia và các thực thể khác nói ở Điều 305, khoản 1, các điểm b, c, d và e phê
chuẩn và được các thực thể nói ở khoản 1, điểm f, của điều đó xác nhận chính
thức theo đúng Phụ lục IX. Các văn kiện phê chuẩn và xác nhận chính thức được
lưu chiểu bên cạnh Tổng thư ký Liên hợp quốc.
Công ước vẫn để ngỏ cho
các quốc gia và thực thể khác nói ở Điều 305 tham gia. Việc tham gia của các
thực thể nói ở Điều 305, khoản 1, điểm f do Phụ lục IX điều chỉnh. Các văn kiện
tham gia được lưu chiểu bên cạnh Tổng thư ký Liên hợp quốc.
1. Công ước có hiệu lực
sau 12 tháng kể từ ngày gửi lưu chiểu văn bản phê chuẩn hay tham gia thứ 60.
2. Đối với mỗi quốc gia
phê chuẩn Công ước hay tham gia vào Công ước sau khi văn bản phê chuẩn hay tham
gia thứ 60 đã được gửi lưu chiểu, thì Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30
sau ngày quốc gia này gửi lưu chiểu văn bản phê chuẩn hay tham gia của mình,
với điều kiện phải tuân thủ quy định ở khoản 1.
Đại hội đồng của Cơ quan
quyền lực sẽ nhóm họp vào ngày mà Công ước bắt đầu có hiệu lực và sẽ bầu ra Hội
đồng của Cơ quan quyền lực. Trong trường hợp Điều 161 không thể thực hiện hoàn
toàn đầy đủ, thì Hội đồng đầu tiên phải được thành lập sao cho phù hợp với
những mục tiêu đã nói ở điều đó.
Các quy tắc, quy định và
thủ tục do Ủy ban trù bị soạn thảo sẽ được tạm thời áp dụng trong khi chờ cho
các qui tắc, qui định và thủ tục đó được Cơ quan quyền lực chính thức thông qua
theo đúng Phần XI.
Cơ quan quyền lực và các
cơ quan của nó hành động theo đúng nghị quyết II của Hội nghị luật biển lần thứ
III của Liên hợp quốc liên quan đến các khoản vốn đầu tư ban đầu và với các
quyết định của Ủy ban trù bị để thực hiện nghị quyết này.
Công ước không chấp nhận bảo
lưu, cũng không chấp nhận các ngoại lệ ngoài những điều đã được các điều khác
của Công ước cho phép một cách rõ ràng.
Điều 309 không ngăn cấm
một quốc gia, vào lúc mà quốc gia này ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia
vào Công ước, ra các tuyên bố, bất kể lới văn hay tên gọi của tuyên bố đó thế
nào, đặc biệt là nhằm điều hòa luật lệ và qui định quốc của họ với Công ước,
với điều kiện là các tuyên bố này không nhằm loại trừ hay sửa đổi hiệu lực pháp
lý của các qui định của Công ước trong việc áp dụng chúng vào quốc gia này.
Giữa các quốc gia thành viên,
Công ước có giá trị hơn các Công ước Giơ-ne-vơ ngày 29 tháng 4 năm 1958 về luật
biển.
Công ước không thay đổi
chút nào về các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia thành viên bắt nguồn từ các
Hiệp ước khác phù hợp với Công ước và các quyền và nghĩa vụ đó không đụng chạm
đến việc các quốc gia khác được hưởng các quyền mà Công ước dành cho họ, cũng
như việc các quốc gia khác thi hành nghĩa vụ của họ bắt nguồn từ Công ước.
Hai hoặc trên hai quốc
gia thành viên tham gia vào Công ước có thể ký các điều ước sửa đổi hay đình
chỉ việc áp dụng các qui định của Công ước và chỉ áp dụng vào các mối quan hệ
giữa họ với nhau, với điều kiện là các điều ước này không đụng đến một trong
các qui định Công ước mà việc không tôn trọng sẽ không phù hợp với việc thực
hiện nội dung và mục đích của Công ước, và cũng với điều kiện là các điều ước này
không đụng chạm đến việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản đã được nêu trong Công ước,
cũng không đụng chạm đến việc các quốc gia khác hưởng và thi hành các quyền hay
nghĩa vụ bắt nguồn từ Công ước.
Các quốc gia thành viên
dự định ký kết một điều ước nói ở khoản 3 cần thông báo cho các bên khác, qua
trung gian của người lưu chiểu Công ước, ý định ký kết điều ước của mình cũng
như những sửa đổi hay việc đình chỉ áp dụng các qui định của Công ước mà điều
ước đó trù định.
Điều này không đụng chạm
đến các điều ước quốc tế được phép hay được duy trì một cách rõ ràng theo các
điều khác của Công ước.
Các quốc gia thành viên
thỏa thuận rằng không thể có sự sửa đổi nào đối với nguyên tắc cơ bản về di sản
chung của loài người đã được nêu lên ở Điều 136 và các quốc gia này sẽ không
tham gia vào một điều ước nào vi phạm nguyên tắc ấy.
Sau một thời gian 10 năm
kể từ ngày Công ước có hiệu lực, mọi quốc gia thành viên có thể, qua văn bản gửi
lên Tổng thư ký Liên hợp quốc, đề nghị các điểm sửa đổi đối với Công ước về
những điểm cụ thể, trong chừng mực mà các điểm sửa đổi đó không nhằm vào các
hoạt động tiến hành trong Vùng, và đề nghị triệu tập một hội nghị có nhiệm vụ
xem xét các điều sửa đổi được đề xuất như vậy. Tổng thư ký chuyển văn bản này
cho các quốc gia thành viên. Nếu trong 12 tháng sau ngày chuyển văn bản, có ít
nhất là một nửa số quốc gia thành viên trả lời một cách thuận lợi cho yêu cầu
này, thì Tổng thư ký triệu tập hội nghị.
Trừ khi Hội nghị sửa đổi
có quyết định khác, Hội nghị đó sẽ áp dụng thủ tục ra quyết định đã được dùng
trong hội nghị luật biển lần thứ III của Liên hợp quốc. Hội nghị phải cố gắng
hết sức để đi đến thỏa thuận về các điểm sửa đổi bằng consensus (thỏa thuận) và
hội nghị chỉ được tiến hành bỏ phiếu về vấn đề khi mọi cố gắng để đạt tới một
sự thỏa thuận không còn nữa.
Qua văn bản gửi lên cho
Tổng thư ký Liên hợp quốc, mọi quốc gia thành viên có thể đề nghị một điều sửa
đổi đối với Công ước, không phải là một điều sửa đổi nhằm vào các hoạt động
tiến hành trong Vùng, và yêu cầu rằng điều sửa đổi đó được thông qua theo thủ
tục đơn giản hóa được trù định trong điều này, không cần triệu tập một hội nghị
để xem xét điều sửa đổi đó. Tổng thư ký Liên hợp quốc chuyển văn bản đó cho tất
cả các quốc gia thành viên.
Nếu trong 12 tháng sau
ngày chuyển văn bản này, một quốc gia thành viên có ý kiến phản đối điều sửa
đổi đã được đề nghị hay phản đối ý kiến đề xuất nhằm làm cho điều sửa đổi đó được
thông qua theo thủ tục đơn giản hóa, thì điều sửa đổi coi như bị bác bỏ. Tổng
thư ký Liên hợp quốc thông báo ngay việc đó cho tất cả các quốc gia thành viên.
Nếu 12 tháng sau ngày
chuyển văn bản, không có một quốc gia thành viên nào có ý kiến phản đối điều
sửa đổi đã được đề xuất hay phản đối đề nghị nhằm làm cho điều đó được thông
qua theo thủ tục đơn giản hóa, thì điều sửa đổi được đề xuất coi như được chấp
thuận. Tổng thư ký thông báo cho tất cả các quốc gia thành viên việc chấp nhận
điều sửa đổi đã được đề xuất này.
1. Qua biên bản gởi lên
Tổng thư ký của Cơ quan quyền lực, mọi quốc gia thành viên có thể đề nghị một điều
sửa đổi đối với các qui định của Công ước chỉ liên quan đến các hoạt động tiến
hành trong Vùng, kể cả các qui định của Mục 4 thuộc Phụ lục VI. Tổng thư ký gởi
văn bản này cho tất cả các quốc gia thành viên. Một khi Hội đồng chuẩn y, điểm
sửa đổi được đề xuất phải được Đại hội đồng chuẩn y. Đại biểu của các quốc gia
thành viên có toàn quyền để xem xét và thông qua điều sửa đổi được đề xuất. Đề
nghị sửa đổi, như đã được Hội đồng và Đại hội đồng chuẩn y, coi như được chấp
thuận.
2. Trước khi chuẩn y một
điều sửa đổi theo đúng khoản 1, Hội đồng và Đại hội đồng phải biết chắc rằng điều
sửa đổi không đụng chạm đến hệ thống thăm dò và khai thác các tài nguyên của
Vùng trong khi chờ đợi triệu tập cuộc hội nghị xét duyệt lại theo đúng Điều
155.
Những điều sửa đổi đối
với Công ước khi được thông qua, được để ngỏ cho các quốc gia thành viên ký kết
tại trụ sở của Liên hợp quốc ở Niu Oóc, trong thời hạn là 12 tháng kể từ ngày
thông qua các điều sửa đổi này, trừ khi các điều sửa đổi đó có qui định khác.
Các Điều 306, 307 và 320
được áp dụng cho tất cả các điều sửa đổi đối với Công ước.
Đối với các thành viên đã
phê chuẩn hay đã tham gia công ước, ngoài những điều đã nói ở khoản 5, sẽ có
hiệu lực vào ngày thứ ba mươi tiếp sau việc gửi lưu chiểu các văn bản phê chuẩn
hay tham gia của hai phần ba số quốc gia thành viên hay của 60 quốc qia thành
viên, số lượng nào cao nhất sẽ được sử dụng. Các điều sửa đổi không đụng chạm
đến việc các quốc gia khác được hưởng các quyền mà Công ước dành cho họ, cũng
không đụng chạm đến việc họ thi hành các nghĩa vụ bắt nguồn từ Công ước.
Một điều sửa đổi có thể
trù định rằng, việc nó có hiệu đòi hỏi phải có một số lượng quốc gia phê chuẩn
hay tham gia cao hơn số lượng mà điều này đòi hỏi.
Đối với một quốc gia đã
phê chuẩn một điều sửa đổi nói ở khoản 1 hay đã tham gia vào điều sửa đổi đó
sau ngày số lượng các văn bản phê chuẩn hay tham gia cần thiết đã được lưu
chiểu, điều sửa đổi này có hiệu lực vào ngày thứ ba mươi tiếp sau ngày nộp lưu
chiểu văn bản phê chuẩn hay tham gia của quốc gia thành viên đó.
Bất kỳ quốc gia nào khi
trở thành thành viên của Công ước, sau khi một điều sửa đổi có hiệu lực theo
đúng khoản 1, nếu không biểu thị một ý định khác, thì được coi như là:
Thành viên của Công ước
đã được sửa đổi; và
Thành viên của Công ước
không được sửa đổi đối với mọi quốc gia thành viên không bị ràng buộc bởi các
điều sửa đổi.
Các điều sửa đổi chỉ nhằm
vào các hoạt động tiến hành trong Vùng và các điều sửa đổi đối với Phụ lục VI
sẽ có hiệu lực đối với tất cả các quốc gia thành viên sau ngày có ba phần tư số
quốc gia thành viên nộp lưu chiểu các văn bản phê chuẩn hay tham gia.
Mọi quốc gia khi trở
thành thành viên của Công ước, sau khi các điều sửa đổi nói trong khoản 5 có
hiệu lực được coi như thành viên của Công ước đã được sửa đổi.
Một quốc gia thành viên
có thể từ bỏ Công ước, qua thông báo viết gửi lên cho Tổng thư ký Liên hợp
quốc, và nói rõ những lý do của việc từ bỏ. Dù quốc gia thành viên này không
nêu rõ lý do đó, thì việc từ bỏ vẫn không vì thế mà vô hiệu lực. Việc từ bỏ có
hiệu lực sau một năm kể từ ngày nhận được thông báo, trừ khi trong thông báo có
trù định một thời hạn chậm hơn.
Việc từ bỏ cũng không làm
cho một quốc gia tránh khỏi các nghĩa vụ về mặt tài chính và hợp đồng mà họ
phải đảm nhận, khi mà quốc gia này còn là thành viên của Công ước, và việc từ
bỏ cũng không ảnh hưởng đến các quyển, nghĩa vụ hay các địa vị pháp lý của quốc
gia này bắt nguồn từ việc áp dụng Công ước, trước khi Công ước không còn hiệu
lực đối với quốc gia đó.
Việc từ bỏ không hề ảnh
hưởng chút nào tới bổn phận của mọi quốc gia thành viên phải làm tròn mọi nghĩa
vụ đã nêu trong Công ước, mà quốc gia này phải tuân thủ theo pháp luật quốc tế
độc lập với Công ước.
Các phụ lục là bộ phận
hoàn chỉnh của Công ước, một sự viện dẫn Công ước cũng là một sự viện dẫn các
phụ lục của nó và sự viện dẫn một phần của Công ước cũng là sự viện dẫn các phụ
lục có liên quan đến phần đó, trừ trường hợp có quy định trái ngược rõ ràng.
Tổng thư ký Liên hợp quốc
là người lưu chiểu Công ước và các điều sửa đổi có liên quan đến công ước.
Ngoài chức năng của người
lưu chiểu, Tổng thư ký Liên hợp quốc còn:
Báo cáo cho tất cả các
quốc gia thành viên, Cơ quan quyền lực và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền về
các vấn đề mang tính chất chung xuất hiện liên quan đến Công ước.
Thông báo cho Cơ quan
quyền lực các văn bản phê chuẩn, xác nhận chính thức và tham gia Công ước và
các điều sửa đổi đối với Công ước, cũng như các văn bản từ bỏ các Công ước;
Thông báo cho các quốc
gia thành viên các điều ước được ký kết theo đúng với Điều 311, khoản 4;
Chuyển cho các quốc gia
thành viên các điều sửa đổi đã được thông qua theo đúng Công ước để phê chuẩn
hay tham gia;
Triệu tập các cuộc họp
cần thiết của các quốc gia thành viên theo đúng Công ước.
3. a) Tổng thư ký cũng
chuyển cho các quan sát viên nói ở Điều 156: Các báo cáo nói ở khoản 2, điểm a;
Các thông báo nói ở khoản
2, điểm b và c;
Văn bản các điểm sửa đổi
nói ở khoản 2, điểm d với tính chất để thông báo.
b) Tổng thư ký cũng mời
các quan sát viên này tham gia các hội nghị của các quốc gia thành viên nói ở
khoản 2 điểm e với tư cách là quan sát viên
Nguyên bản của Công ước
bằng tiếng Anh, Ả Rập, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Pháp, và Nga đều có giá trị
chính thức như nhau và được lưu chiếu bên cạnh Tổng thư ký Liên hợp quốc, theo
Điều 305, khoản 2.
Để làm tin, các đại diện
toàn quyền ký dưới đây là những người được phép hợp thức ký vào Công ước.
Comments
Post a Comment