CÔNG ƯỚC VỀ CÔNG NHẬN VÀ
THI HÀNH CÁC QUYẾT ĐỊNH TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI NĂM 1958
New York, ngày 10 tháng 06
năm 1958
Điều 1.
Công
ước này áp dụng đối với việc công nhận và thi hành các quyết định trọng tài được
ban hành tại lãnh thổ của một Quốc gia khác với Quốc gia nơi có yêu cầu công nhận
và thi hành quyết định trọng tài đó, xuất phát từ các tranh chấp giữa các thể
nhân hay pháp nhân. Công ước còn được áp dụng cho những quyết định trọng tài
không được coi là quyết định trong nước tại Quốc gia nơi việc công nhận và thi
hành chúng được yêu cầu.
Thuật
ngữ “các quyết định trọng tài” bao gồm không chỉ những quyết định ra bởi các Trọng
tài viên được chỉ định cho từng vụ mà còn bao gồm những quyết định ra bởi các tổ
chức trọng tài thường trực được các bên đưa vụ việc ra giải quyết.
Khi
ký kết, phê chuẩn, hoặc gia nhập Công ước này, hoặc thông báo phạm vi áp dụng
Công ước theo điều X, bất kỳ Quốc gia nào cũng có thể trên cơ sở có đi có lại
tuyên bố rằng Quốc gia đó sẽ áp dụng Công ước đối với việc công nhận và thi
hành các quyết định được đưa ra tại lãnh thổ một Quốc gia thành viên khác mà
thôi. Quốc gia đó còn có thể tuyên bố chỉ áp dụng Công ước cho các tranh chấp
phát sinh từ các quan hệ pháp lý/ dù là quan hệ hợp đồng hay không. Được coi là
quan hệ thương mại theo pháp luật quốc gia của Quốc gia đó.
Điều 2.
Mỗi
Quốc gia thành viên sẽ công nhận một thỏa thuận bằng văn bản theo đó các bên
cam kết đưa ra trọng tài xét xử mọi tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh giữa
các bên từ một quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không, liên
quan đến một đối tượng có khả năng giải quyết được bằng trọng tài. Thuật ngữ
“thoả thuận bằng văn bản” bao gồm điều khoản trọng tài trong một hợp đồng hoặc
một thoả thuận trọng tài được các bên ký kết hoặc được ghi trong thư tín trao đổi.
Toà
án của một Quốc gia thành viên, khi nhận được một đơn kiện về một vấn đề mà đối
với vấn đề đó các bên đã có thoả thuận theo nội dung của điều này, sẽ, theo yêu
cầu của một bên, đưa các bên tới trọng tài, trừ khi Toà án thấy rằng thoả thuận
nói trên không có hiệu lực, không hiệu quả hoặc không thể thực hiện được.
Điều 3.
Mỗi
Quốc gia thành viên sẽ công nhận các quyết định trọng tài có giá trị ràng buộc
và thi hành chúng theo quy tắc về thủ tục của lãnh thổ nơi quyết định sẽ được
thi hành, theo các điều kiện được nêu trong các điều khoản dưới đây. Không được
đặt các điều kiện về căn bản nặng hơn hoặc các phí hay chi phí cao hơn cho việc
công nhận và thi hành các quyết định trọng tài mà Công ước này áp dụng tới so với
việc công nhận và thi hành các quyết định trọng tài trong nước.
Điều 4.
Để
đạt được việc công nhận và thi hành một quyết định trọng tài như nói ở điều
trên, bên yêu cầu công nhận và thi hành, khi nộp đơn yêu cầu phải cung cấp:
a.
Bản quyết định gốc có xác nhận hợp lệ hoặc một bản sao quyết định có chứng nhận
hợp lệ;
b.
Thỏa thuận gốc theo điều II hoặc bản sao thỏa thuận đó được chứng nhận hợp lệ,
Nếu
quyết định hoặc thỏa thuận nói trên không được lập bằng thứ tiếng chính thức của
nước nơi quyết định sẽ được thi hành, bên yêu cầu công nhận và thi hành quyết định
phải xuất trình bản dịch các tài liệu đó ra thứ tiếng nói trên. Bản dịch phải
được chứng nhận bởi một thông dịch viên chính thức hay đã tuyên thệ hoặc bởi một
cơ quan ngoại giao hoặc lãnh sự.
Điều 5.
Việc
công nhận và thi hành quyết định có thể bị từ chối, theo yêu cầu của bên phải
thi hành, chỉ khi nào bên đó chuyển tới cơ quan có thẩm quyền nơi việc công nhận
và thi hành được yêu cầu, bằng chứng rằng:
Các
bên của thỏa thuận nói ở điều II, theo luật áp dụng đối với các bên, không có đủ
năng lực, hoặc thoả thuận nói trên không có giá trị theo luật mà các bên chịu sự
điều chỉnh, nếu không có chỉ dẫn về điều này, theo luật của Quốc gia nơi ra quyết
định; hoặc
Nếu
bên phải thi hành quyết định không được thông báo thích đáng về việc chỉ định
trọng tài viên hay về tố tụng trọng tài hoặc do một nguyên nhân gì khác không
thể trình bày vụ việc của mình; hoặc Quyết định giải quyết một tranh chấp không
được dự liệu trong các điều khoản của đơn yêu cầu đưa ra trọng tài giải quyết
hay nằm ngoài các điều khoản đó, hoặc quyết định trọng tài gồm các quyết định về
các vấn đề ngoài phạm vi yêu cầu xét xử bằng trọng tài, tuy nhiên, nếu các quyết
định về các vấn đề được yêu cầu xét xử bằng trọng tài có thể tách rời khỏi các
quyết định về các vấn đề không được yêu cầu, thì phần của quyết định trọng tài
gồm các quyết định về vấn đề được yêu cầu có thể được công nhận và thi hành; hoặc
Thành
phần trọng tài xét xử hoặc thủ tục xét xử trọng tài không phù hợp với thoả thuận
của các bên hoặc, nếu không có thoả thuận đó, không phù hợp với luật của nước
tiến hành trọng tài; hoặc
Quyết
định chưa có hiệu lực ràng buộc đối với các bên, hoặc bị huỷ hay đình hoãn bởi
cơ quan có thẩm quyền của nước hoặc theo luật của nước nơi quyết định được lập.
Việc
công nhận và thi hành quyết định trọng tài còn có thể bị từ chối nếu như cơ
quan có thẩm quyền của nước, nơi việc công nhận và thi hành đó được yêu cầu cho
rằng:
Đối
tượng của vụ tranh chấp không thể giải quyết được bằng trọng tài theo luật pháp
của nước đó; hoặc
Việc
công nhận và thi hành quyết định sẽ trái với trật tự công cộng của nước đó.
Điều 6.
Nếu
cơ quan có thẩm quyền nêu ở điều V mục 1 (e) nhận được yêu cầu huỷ hoặc đình
hoãn một quyết định, thì cơ quan nơi sẽ thi hành quyết định có thể, nếu thấy
phù hợp, hoãn quyết định cho thi hành quyết định trọng tài hoặc còn có thể,
theo đề nghị của bên yêu cầu thi hành quyết định, ra lệnh phía bên kia đưa ra bảo
đảm thích hợp.
Điều 7.
Các
quy định của Công ước này không làm ảnh hưởng tới hiệu lực của các thoả thuận
đa phương hay song phương của các Quốc gia thành viên liên quan tới việc công
nhận và thi hành các quyết định trọng tài, cũng như không tước của bất kỳ bên
nào liên quan quyền bên đó có thể dùng quyết định trọng tài theo cách và giới hạn
được luật pháp hoặc các điều ước của nước nơi quyết định sẽ được thi hành cho
phép.
Nghị
định thư Giơnevơ năm 1923 về Các điều khoản trọng tài và Công ước Giơnevơ năm
1927 về thi hành các quyết định trọng tài nước ngoài sẽ ngừng có hiệu lực giữa
các Quốc gia thành viên khi và trong phạm vi các Quốc gia thành viên bị ràng buộc
bởi Công ước này.
Điều 8.
Công
ước này được mở tới ngày 31 tháng 12 năm 1958 để ký nhân danh cho mọi Thành
viên của Liên Hợp quốc và cũng nhân danh mọi Quốc gia khác đang hoặc sau đây trở
thành thành viên của bất kỳ cơ quan chuyên môn nào của Liên Hợp Quốc, hoặc đang
hoặc sau đây trở thành một bên của Quy chế của Toà án Công lý Quốc tế/hoặc bất
cứ Quốc gia nào khác nhận được lời mời của Đại hội Đồng Liên Hợp Quốc.
Công
ước này sẽ được phê chuẩn và văn kiện phê chuẩn sẽ được Tổng thư ký Liên Hợp Quốc
lưu giữ.
Điều 9.
Công
ước này được mở ra để gia nhập cho mọi Quốc gia nêu ở điều VIII.
Việc
gia nhập sẽ được thực hiện bằng cách trao cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc lưu giữ
văn bản xin gia nhập.
Điều 10.
Mọi
Quốc gia có thể vào thời điểm ký kết, phê chuẩn hoặc gia nhập, tuyên bố rằng Công
ước này sẽ áp dụng cho tất cả hoặc bất kỳ lãnh thổ nào mà trong quan hệ quốc tế
Quốc gia đó chịu trách nhiệm. Tuyên bố đó sẽ có hiệu lực khi Công ước bắt đầu
có hiệu lực đối với Quốc gia có liên quan.
Vào
bất lỳ thời điểm nào sau đó mọi tuyên bố phạm vi áp dụng như vậy sẽ được thực
hiện bằng một thông báo gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc và sẽ có hiệu lực kể
từ ngày thứ chín mươi sau ngày Tổng thư ký Liên Hợp Quốc nhận được thông báo
đó, hoặc kể từ ngày Công ước bắt đầu có hiệu lực đối với Quốc gia liên quan, lấy
từ ngày nào trong hai ngày đó đến chậm hơn.
Đối
với các lãnh thổ không nằm trong phạm vi áp dụng của Công ước này vào thời điểm
ký kết, phê chuẩn hoặc gia nhập, mỗi Quốc gia liên quan sẽ xem xét khả năng tiến
hành các bước cần thiết nhằm mở rộng việc áp dụng Công ước này tới các lãnh thổ
đó, khi cần thiết do những lý do Hiến pháp, thì tùy vào sự đồng ý của Chính quyền
của các lãnh thổ đó.
Điều 11.
Trong
trường hợp một Quốc gia liên bang hay Quốc gia chưa nhất thể hoá thì áp dụng
các điều khoản sau:
Đối
với các điều khoản của Công ước này nằm trong giới hạn thẩm quyền lập pháp của
chính quyền liên bang, các nghĩa vụ của Chính phủ liên bang, trong chừng mực
đó, sẽ như các nghĩa vụ của các Quốc gia thành viên không phải là Quốc gia liên
bang.
Đối
với các điều khoản của Công ước này nằm trong giới hạn thẩm quyền lập pháp của
các bang hoặc tỉnh thành viên mà theo hệ thống hiến pháp của liên bang, không
có trách nhiệm lập pháp, Chính phủ liên bang sẽ thông báo các điều khoản đó cho
các cơ quan có thẩm quyền thích hợp của các bang hoặc tỉnh thành viên, cùng với
một khuyến nghị tán thành, một cách sớm nhất.
Một
Quốc gia liên bang Thành viên của Công ước này, theo yêu cầu của bất kỳ một Quốc
gia thành viên khác gửi qua Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ đưa ra một bản tường
trình về luật pháp và thực tiễn của liên bang và các đơn vị thành viên của mình
liên quan tới mọi điều khoản cụ thể của Công ước này, từ đó chỉ ra giới hạn hiệu
lực của những điều khoản đó bằng hoạt động lập pháp hay hoạt động khác.
Điều 12.
Công
ước này sẽ có hiệu lực vào ngày thứ chín mươi tiếp sau ngày nhận được văn kiện
phê chuẩn hoặc gia nhập thứ ba.
Đối
với mỗi Quốc gia phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước này, sau khi đã trao văn kiện
phê chuẩn hay gia nhập thứ ba.
Công
ước sẽ có hiệu lực vào ngày thứ chín mươi sau khi trao văn kiện phê chuẩn hoặc
gia nhập của Quốc gia đó.
Điều 13.
Mọi
Quốc gia thành viên có thể từ bỏ Công ước này bằng một văn bản thông báo gửi tới
Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Việc từ bỏ sẽ có hiệu lực sau một năm kể từ ngày Tổng
thư ký nhận được thông báo.
Mọi
Quốc gia đã tuyên bố hoặc thông báo theo Điều X có thể, vào mọi thời điểm sau
đó, bằng thông báo gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, tuyên bố rằng Công ước
này sẽ thôi áp dụng tới lãnh thổ liên quan một năm sau ngày Tổng thư ký nhận được
thông báo.
Công
ước này sẽ tiếp tục áp dụng cho các quyết định trọng tài mà các thủ tục công nhận
và thi hành được bắt đầu trước khi việc từ bỏ có hiệu lực.
Điều 14.
Một
Quốc gia Thành viên không có quyền lợi dụng Công ước này chống các Quốc gia
thành viên khác trừ khi trong phạm vi mà các Quốc gia đó tự ràng buộc để áp dụng
Công ước.
Điều 15.
Tổng
thư ký Liên Hợp Quốc sẽ thông báo cho các Quốc gia nêu ở Điều VIII về:
Việc
ký kết và phê chuẩn theo Điều VIII;
Việc
gia nhập căn cứ vào Điều IX;
Tuyên
bố và các thông báo theo Điều I, X, và XI;
Ngày
tháng bắt đầu có hiệu lực của Công ước này theo Điều XII;
Việc
từ bỏ và thông báo căn cứ theo Điều XIII.
Điều 16.
Công
ước này sẽ được lưu tại phòng lưu trữ của Liên Hợp Quốc, các bản tiếng Trung Quốc,
Anh, Pháp, Nga và Tây Ban Nha đều có giá trị như nhau.
Tổng
thư ký Liên Hợp Quốc sẽ gửi một bản sao có xác nhận của Công ước này cho các Quốc
gia nêu ở Điều VIII.
Comments
Post a Comment