Thông
số các tàu tham chiến của Hải quân VNCH trong trận Hải chiến Hoàng Sa
19-01-1974.
1. Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ-16
Đây
là loại tàu khu trục nhỏ được sản xuất tại Mỹ vào năm 1941, đưa vào hoạt động
chiến đấu trong hải quân Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ 2 với tên gọi USS
Chincoteague (AVP-24). Sau khi kết thúc chiến tranh, tàu này được cho ngưng hoạt
động vào năm 1946.
Đến
năm 1949, con tàu lại được "hồi sinh" để phục vụ trong lực lượng tuần
duyên Mỹ giai đoạn 1949-1972. Tháng 06/1972, con tàu này lại được sửa đổi và
chuyển giao cho hải quân Việt Nam Cộng hòa với vai trò tàu khu trục nhỏ.
1.1 Thông số ký thuật:
1.1.1
Kích thước.
-
Dài 94,72 mét.
-
Rộng 12,5 mét.
-
Mớn nước 4,9 mét.
-
Lượng giãn nước tiêu chuẩn 1.766 tấn, đầy tải 2.800 tấn.
-
Tốc độ hành trình 18 hải lý/h.
1.1.2
Vũ khí.
-
1 khẩu 127 ly (5 inch) phía trước mũi.
-
1 đại bác 40 ly đôi cũng ở sân trước.
-
1 khẩu 127 ly ở sân thượng phía trên- 2 khẩu 40 ly bên tả và hữu hạm tại
sân sau.
-
2 khẩu đại bác 20 ly đôi ở hai bên hông đài chỉ huy.
-
2 đến 5 khẩu cối 81 ly.
1.2
Số phận.
Sau
khi kết thúc chiến tranh Việt Nam (1975), Tuần dương hạm HQ-16 gia nhập biên chế
hải quân Philippines cho đến khi "nghỉ hưu" vào năm 1993.
2. Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4
Đây
là loại tàu khu trục nhỏ lớp Edsall được đưa vào hoạt động trong hải quân Mỹ
vào năm 1944 với tên gọi USS Forster (DE-334). Con tàu này ngưng hoạt động vào
năm 1954. Đến năm 1956, nó được huy động trở lại phục vụ trong biên chế cảnh
sát biển Mỹ ở vịnh Subic, Philippines. Ngày 25/09/1971, con tàu được chuyển
giao cho hải quân Việt Nam Cộng hòa.
2.1 Thông số kỹ thuật.
2.1.1
Kích thước.
-
Dài 93m.
-
Rộng 11,15m.
-
Mớn nước 3,18m.
-
Lượng giãn nước tiêu chuẩn 1.253 tấn, đầy tải 1.590 tấn.
-
Tàu được trang bị 4 động cơ diesel truyền động cho chân vịt 2 trục.
-
Tốc độ tối đa 21 hải lý/h.
-
Thủy thủ đoàn: chừng 175 người.
2.1.2 Vũ
khí.
-
3 pháo 76mm.
-
2 pháo 40mm.
-
8 pháo 20mm.
-
3 ống phóng ngư lôi 533mm.
-
8 máy phóng mìn sâu chống tàu ngầm.
-
Tàu được trang bị radar TACAN.
2.2
Số phận.
Là
tàu hiện đại nhất của VNCH thời bấy giờ. Sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam,
tàu HQ-4 được chuyển giao hoạt động trong hải quân Việt Nam với tên gọi HQ-3. Đến
nay tình trạng hoạt động của tàu này không rõ ràng.
3. Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ-5.
HQ-5
cùng lớp với tàu HQ-16. Tàu này được đóng và đưa vào hoạt động trong hải quân Mỹ
năm 1944 với tên gọi USS Castle Rock (AVP-35). Nó đã tham chiến ở khu vực trung
tâm Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ 2.
Năm
1949,tàu thuộc lực lượng tuần duyên Hoa Kỳ (USCG - US Coast Guard) mang tên
Castle Rock (WHEC 383).
Ngày
21/12/1971 tàu được chuyển giao cho Hải quân Việt Nam Cộng hòa, mang tên Trần
Bình Trọng, số hiệu HQ-5:
3.1 Thông số kỹ thuật.
3.1.1
Kích thước.
-
Dài 94,72 mét.
-
Rộng 12,5 mét.
-
Mớn nước 4,1 mét.
-
Lượng giãn nước tiêu chuẩn 1.766 tấn, đầy tải 2.800 tấn.
-
Máy chánh: 2 máy dầu cặn loại Fairbank Morse 6080 mã lực, 2 chân vịt.
-
Tốc độ hành trình 18 hải lý/h.
-
Thủy thủ đoàn: chừng 200 người.
3.1.2 Vũ
khí.
-
1 khẩu 127 ly (5 inch) phía trước mũi.
-
1 đại bác 40 ly đôi cũng ở sân trước.
-
1 khẩu 127 ly ở sân thượng phía trên.
-
2 khẩu 40 ly bên tả và hữu hạm tại sân sau.
-
2 khẩu đại bác 20 ly đôi ở hai bên hông đài chỉ huy.
-
2 đến 5 khẩu cối 81 ly.
Nguyên
thủy khi chuyển giao, HQ-5 chỉ có đại bác 127 ly, sau này Hải Quân Công Xưởng
VNCH gắn thêm các ụ đại bác 40 ly để tăng cường hỏa lực tác chiến.
3.2
Số phận.
Tuần
Dương Hạm là loại chiến hạm lớn nhất của Hải quân VNCH và có súng cỡ 127 ly
cũng lớn nhất. Các loại vũ khí chống tàu ngầm đã bị cắt bỏ khi chuyển giao cho
Hải quân VNCH.
Là
Soái hạm (tàu chỉ huy) trong Hải đoàn của VNCH tham chiến trong sự kiện hải chiến
Hoàng Sa, 1974.
Sau
Chiến tranh Việt Nam, tàu khu trục HQ-5 cũng sang Philippines. Con tàu sau đó
được đưa vào hoạt động trong biên chế hải quân Philippines với tên gọi BRP
Francisco Dagohoy (PF-10). Tàu đã ngưng hoạt động vào năm 1985.
4. Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10
Nguyên
gốc của Nhật Tảo HQ-10 là tàu quét mìn USS Serene (AM-300), được đưa vào hoạt động
trong hải quân Mỹ ngày 31/10/1943. Tàu này đã được sử dụng vào nhiệm vụ quét
mìn xung quanh quần đảo Okinawa (Nhật Bản) nhằm dọn đường cho các lực lượng tấn
công của hải quân Mỹ.
Sau
đó con tàu này còn thực hiện nhiệm vụ giải phóng các bãi mìn do hải quân Nhật Bản
sử dụng phong tỏa các vùng biển Hoàng Hải, eo biển Tsushima và biển Nhật Bản.
USS Serene (AM-300) đã được tặng 6 sao cho các thành tích trong chiến đấu.
Năm
1964, con tàu được chuyển đổi thành tàu hộ tống theo chương trình hỗ trợ quân sự
của Mỹ dành cho Việt Nam Cộng hòa và mang tên mới là Nhật Tảo HQ-10.
4.1 Thông số kỹ thuật.
4.1.1
Kích thước.
-
Dài 56,24 mét.
-
Rộng 10 mét.
-
Mớn nước 2,97 mét.
-
Lượng giãn nước tiêu chuẩn 650 tấn.
-
Tốc độ hành trình 14,8 hải lý/h.
- Thủy
thủ đoàn 82 người.
- Hộ
Tống Hạm Nhật Tảo thuộc loại Admirable Class Minesweeper (AM).
- Do
hảng tàu Winslow Marine Railway and Shipbuilding Co ở Winslow tiểu bang
Washington đóng.
4.1.2
Vũ khí.
-
1 đại bác 76 ly lộ thiên ở sân trước.
-
2 đại bác 40 ly đơn bên tả và hữu hạm ở sân giữa.
-
4 đại bác 20 ly đôi ở hai bên đài chỉ huy và ở sân sau.
-
1 dàn phóng cối chống ngầm.
-
4 ống phóng mìn biển sâu.
-
2 hệ thống xử lý mìn.
4.2
Lịch sử
Chiến
hạm Nhật Tảo HQ-10 được hạ thủy ngày 31 tháng 10 năm 1943 và được đăt tên là
USS Serene (AM 300).
Ngày
7 tháng 2 năm 1955 đổi thành loại Fleet Minesweeper MSF 300.
Ngày
24 tháng 1 năm 1964 chuyển giao cho Hải Quân VNCH và được đặt tên là Hộ Tống Hạm
Nhật Tảo HQ10.
Trong
trận chiến ngày 19/1/1974 tại Hoàng Sa, sau khoảng 15 phút giao tranh, Nhật
Tảo HQ-10 bị trúng đạn vào tháp pháo và chìm tại chỗ sau đó. 62 sĩ quan, thủy
thủ Việt Nam Cộng hòa trên tàu đã tử trận. Một số người khác được một tàu buôn
Hà Lan cứu vớt sau gần 4 ngày lênh đênh trôi giạt trên biển. Trước đó, Hạm đội
7 của Mỹ đã từ chối lời đề nghị tham gia tìm kiếm, cứu hộ các sĩ quan, thủy thủ
còn sống trên tàu HQ-10 của phía VNCH.
Đánh giá chung
Trong
số các tàu VNCH tham chiến, có lẽ chỉ Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 mới xứng
đáng mang danh “chiến hạm”. Trong khi các chiến hạm khác tuy được gọi là Tuần
Dương Hạm hay Hộ Tống Hạm, nhưng thật ra chỉ là loại tuần duyên (Coast Guard)
hay tàu rà mìn của Hoa Kỳ. 4 chiến hạm Hoa kỳ viện trợ cho VNCH đều thuộc loại
phế thải, thay vì phá hủy, họ tân trang lại rồi trao cho VNCH.
Comments
Post a Comment